Home » » Phá Thai và Sự Sầu Não

Phá Thai và Sự Sầu Não

Lược Trích Bài Phỏng Vấn Với Cô Theresa Burke Thuộc Nhóm Mục Vụ Vườn Nho Rachel

KING OF PRUSSIA, Pennsylvania (Zenit.org).- Một người phụ nữ phải trải qua rất nhiều giai đoạn tâm lý trong mối quan hệ của người phụ nữ đó đối với đứa trẻ chưa được sinh ra, khi tiến trình mang thai diễn ra, yếu tố đó vẫn thường hay bị bỏ qua trong những cuộc tranh luận về phá thai.

Đó là lời nhận xét của Nữ Tiến Sĩ Theresa Burke, sáng lập viên của Nhóm Mục Vụ Vườn Nho của Rachel (Rachel’s Vineyard Ministries), chuyên tổ chức những buổi tĩnh tâm cuối tuần để giúp các phụ nữ được chữa lành sau khi họ đã phá thai.



Nữ Tiến Sĩ Theresa Burke
Trong bài phỏng vấn dài, được chia làm 2 phần, với hãng tin Zenit, Nữ Tiến Sĩ Burke thảo luận về mối quan hệ giữa người phụ nữ và đứa trẻ chưa được sinh ra của mình, và sự liên kết giữa phá thai và sự sầu não (depression).

Trong các năm qua, dịch giả, cũng đã có dịp giới thiệu qua về Nhóm Mục Vụ Vườn Nho của Rachel, và sau hai bài dịch dài này, chúng ta sẽ hiểu rõ thêm về những nổi đau thầm kín của những người phụ nữ. Cô Theresa Burke và Chồng Cô cũng là thành viên của Hội Các Linh Mục Bảo Vệ Sự Sống của Cha Frank Pavone.

Hỏi (H): Thưa Cô, đâu là bản chất tự nhiên về mối quan hệ tâm sinh lý giữa một người phụ nữ và đứa trẻ còn nằm trong bụng trong suốt tiến trình phát triển của thai kỳ?

Cô Burke (T): Thưa, việc mang thai không phải là một căn hay một thứ bệnh, mà đó là một sự kiện tự nhiên được diển ra từ hàng ngàn năm nay, và qua biết bao nhiêu thế hệ. Thân thể của những người phụ nữ được Thiên Chúa trao cho bản năng là dưỡng nuôi và duy trì sự sống. Mối quan hệ tâm sinh lý giữa người phụ nữ và thai nhi không những được biểu hiện bằng những thay đổi về mặt thể lý và hooc môn, mà còn cả về hệ thống hổ trợ cho các người phụ nữ và nền văn hóa nữa.

Đối với hầu hết những người phụ nữ, 3 tháng thai nghén đầu chính là khoảng thời gian hồi hộp, kỳ vọng, và vui sướng về sự mang thai của họ, hay là nổi giận dữ và sợ hãi về việc phải chấm dứt đi bào thai.

Những cảm nghĩ yêu/ghét thông thường chính là: Người mẹ ngạc nhiên về sự thật huyền bí rằng cơ thể của mình có thể tạo ra sự sống, và đồng thời cô cũng cảm thấy quá sức về những trách nhiệm phải chăm sóc cho một con người mới nữa.

Trong suốt thời gian phát triển của thai kỳ, người mẹ có thể có những cảm xúc tích lẫn tiêu cực về những đổi thay trong hình dáng trên thân thể mình. 3 tháng thai nghén cuối được xen lẫn với sự hồi hộp, âu lo về việc sinh con; những mối quan tâm về sức khỏe của thai nhi, cùng những lo lắng về việc liệu người bạn đời của họ sẽ thích ứng như thế nào về thành viên mới của gia đình cũng như những lo ngại về mặt tài chánh.

Đồng thời, người phụ nữ cảm thấy vui mừng, phấn chấn về sự chào đời của thai nhi và sự bắt đầu một giai đoạn sống hoàn toàn mới mẽ trong cuộc đời của cô ta. Vào lúc sinh nở, khi đứa trẻ được đặt trong vòng tay của người mẹ, thì một sự nhiệm mầu, một sự hân hoan, vui sướng, tràn ngập, tất cả cùng hội tụ lại trong một sự gắn bó mạnh mẽ, vô hình khi người mẹ sung sướng đón chào một cuộc sống quý giá mới vào thế giới.

Chúng ta có thể nói rằng những người phụ nữ cần trọn 9 tháng thai kỳ để ghi dấu toàn bộ tiến trình phát triển tâm sinh lý và tình cảm, đi cùng với thiên chức làm mẹ. Cả hai, người mẹ và trẻ thơ, đều cùng trải qua tiến trình phát và hoán chuyển nhanh chóng, diệu kỳ.

(H): Thưa Cô, còn những yếu tố khác như: những áp lực đến từ gia đình và người bạn đời của họ, cùng với những khó khăn về mặt kinh tế, đóng vai trò như thế nào trong việc đẩy người phụ nữ đến quyết định phá thai?

(T): Thưa, khi chúng ta nhìn lại sự chọn mang tính cách quyết định (rhetoric choice) mà chúng ta đã thực hiện, thì liệu chúng ta có thể thành thật hơn khi dám hỏi rằng: “Sự chọn lựa đó là của ai vậy không?”

Những cuộc nghiên cứu mới đây ám chỉ rằng, trong tất cả mọi trường hợp, hết 95% là do người bạn trai, người đóng vai trò chính trong quyết định phá thai. Còn những cuộc nghiên cứu khác, như bản báo cáo vào tháng Bảy năm 2005 được đăng trên tờ Hậu Phá Thai của Học Viện Elliot (Elliot’s Post Abortion Review) thì tiết lộ cho thấy rằng có đến 80% trường hợp người phụ nữ sẽ sinh con, nếu như họ nhận được sự ủng hộ từ người bạn đời của họ.

Một người làm công tác bảo vệ tại các bệnh viện phá thai trước kia đã chứng thực tại tiểu bang Massachusetts rằng những người phụ nữ vẫn thường xuyên bị đe dọa hay bị hành hạ, ngược đãi bởi những người đàn ông, mang họ tới các bệnh viện phá thai. Chúng ta vẫn thường nghe rằng, sự phá thai là chọn lựa của một người nào đó trong cuộc đời của cô ta, và chúng ta vẫn thường hay nghe những người phụ nữ nói rằng họ không còn có một sự chọn lựa nào cả, ngoài chuyện phá thai.

Đúng là, chuyện giết người, chính là nguyên nhân số 1 gây ra cái chết trong số những người phụ nữ mang thai. Những người đàn ông bị quy án vào tội giết người, giết những trẻ thơ mà người bạn đời của họ mang thai, thì lại nói rằng họ không muốn trả tiền phụng dưỡng con cái (child support), và coi đó là động lực chính, để áp lực những người bạn đời của họ phải phá thai. Thì những thống kê gây ra sự khó chịu trên tầm cở quốc gia đó rõ ràng ám chỉ rằng có một sự ép buộc cao độ, đẩy những người phụ nữ vào chuyện phá thai mà họ không hề mong muốn tí nào.

Không có sự hổ trợ nhất định từ người cha của đứa trẻ hay gia đình riêng của người mẹ, thì rất nhiều người mẹ sợ rằng họ sẽ không có nguồn cung cấp để dưỡng nuôi đứa trẻ. Với mức nghèo khổ hiện nay trong số những người làm cha/mẹ mà không có người bạn đời, và những thách đố mà họ phải diện đối, thì đây quả thực là một vấn nạn rất lớn. Thêm vào đó, lại có rất nhiều trường hợp, mà đằng sau những người phụ nữ đã phá thai, chúng ta sẽ tìm thấy rằng có rất nhiều người có liên quan chính đến “sự chọn lựa” phá thai của người phụ nữ, và những người này có uy thế thuyết phục và áp lực người phụ nữ đang mang thai.

Điều này có thể là cha mẹ của những người phụ nữ trẻ đang mang thai, những người đe dọa cô gái trẻ rằng họ sẽ từ chối yêu thương hay thậm chí đuổi ra khỏi nhà (eviction) nếu như cô gái trẻ không chịu phá thai; rồi trường học, những chuyên gia về sức khỏe tâm thần và những chuyên gia chăm sóc ý tế, những người dùng quyền hành và vị thế của họ để biến sự phá thai trông có vẽ như đó là một quyết định đúng đắn, chững chạc, và chỉ có quyết định phá thai duy nhất đó, mới có thể hóa giải hiện tình khó khăn hiện tại của người phụ nữ trẻ tuổi đang mang thai mà thôi.

Thì đây thật sự là một điều khó hiểu và khó giải quyết khi có một ám chỉ nào đó có liên quan đến sức khỏe của thai nhi, và trong những trường hợp như vậy, áp lực phá thai thường là rất lớn. Đối với những người phụ nữ nào, vốn phải bị đối diện với sự biến dạng trầm trọng của đứa trẻ, thì có đến 95% những người phụ nữ chọn hình thức gởi trẻ bị dị dạng vào các trại tế bần, hơn là phải giết chết các trẻ đó, vì suy cho cùng, đó là cách tình cảm và nhân bản hơn. Điều này giúp người phụ nữ tránh khỏi sự sầu khổ phức tạp gây ra bởi việc phá thai quá trể, vốn cũng là một kinh nghiệm rất hãi hùng cho cả người mẹ lẫn đứa trẻ.

(H): Thưa Cô, điều gì xảy ra trong mối quan hệ tâm sinh lý khi người phụ nữ phá thai? Và liệu có một sự khác biệt nào đó giữa những ảnh hưởng của việc sẩy thai đồng thời cùng lúc không?

(T): Thưa, khi một người mẹ bị bất ngờ tách ra khỏi thai nhi một cách vũ phu, bạo động, thì sẽ có một sự tổn thương lâu dài về mặt tự nhiên. Người phụ nữ đó phải trải qua một cái chết không được tự nhiên cho lắm. Thì trong nhiều trường hợp, người phụ nữ đó đã trầm trọng xúc phạm đến đạo đức luân lý và những bản năng tự nhiên của mình. Dường như họ sẽ cảm nghiệm, là có một cú đấm mạnh bạo nào đó vào hình ảnh của họ như là những “người mẹ” vốn dưỡng nuôi, bảo vệ và duy trì mạng sống.

Tôi đã cố vấn cho hàng ngàn người phụ nữ, mà cuộc sống của họ, cứ mãi bị sâu xé bởi tổn thương gây ra do sự phá thai mà họ cảm nghiệm như là một diễn tiến vô cùng tàn nhẫn và suy đồi. Nào là những nổi sầu khổ, sự buồn phiền, nhức đầu, cảm thấy xấu hổ và tội lỗi, cũng như giận dữ, oán ghét. Họ phải học cách để biến họ trở thành những người chai đá bằng chính rượu và thuốc, hay đối phó nổi đau được lặp đi, lặp lại của họ bằng chính rượu và thuốc. Một số muốn tái lập lại nổi đau của việc phá thai bằng lối sống thả lõng, bừa bãi, cẩu thả để những cuộc phá thai lập đi lập lại nhiều lần, và họ cứ mãi bị vướng vào vòng đau đớn luẫn quẫn về việc bị ruồng và chối bỏ.

Còn những người khác thì cố che lấp mọi tư tưởng của họ bằng sự ăn uống bừa bãi, bằng những cuộc tấn công hoảng sợ (panic), sự trầm cảm, sự mất trí, lo lắng, và những suy nghĩ muốn tự tử. Một số thì phải gánh chịu sự hủy diệt vĩnh viễn về mặt thể lý và khả năng sinh đẻ, khiến họ không thể sinh con được nữa trong tương lai. Việc phá thai chính là một cảm nghiệm chết người. Nó chính là chiều kích về tiềm năng, mối quan hệ, trách nhiệm, sự gắn kết từ mẫu, sự liên kết và tính vô tội của con người. Hiếm có những người phụ nữ đã từng phá thai nào mà không cảm nghiệm ray rứt được sự mâu thuẩn và những cảm nghĩ yêu / ghét, hối hận, và tội lỗi của họ.

Sẽ là một sự coi thường, thô thiển khi nghĩ rằng cứ cố gắng vượt qua, là mọi chuyện sẽ đâu vào đấy mà không phải trải qua rất nhiều triệu chứng phức tạp.

Trong cuốn sách của tôi có nhan đề: “Nổi Sầu Khổ Bị Cấm Đoán: Nổi Đau Không Nói Thành Lời của Việc Phá Thai” (Forbidden Grief: The Unspoken Pain of Abortion,) cùng với tác giả David C. Reardon, chúng tôi mời các độc giả hãy hướng mình vào sự mật thiết nơi cõi con tim về những kinh nghiệm con người, thì đó là nơi mà cuộc tranh luận về việc phá thai rất ít khi được đụng chạm đến.

Khi các cuộc luận chiến (polemics), những cuộc diễn hành, mang tính chất chính trị về sự tự do và về các quyền được chấm dứt, thì có những khía cạnh về mặt tình cảm của chuyện phá thai mà từ ngữ không thể nào có thể diễn tả cho được.

Sự đau đớn về mặt tâm, sinh lý của việc phá thai thường bị xã hội làm cho im hơi, lặng tiếng, và bỏ mặc bởi giới truyền thông, bị cự tuyệt, khước từ bởi các bác sĩ về tâm thần học, hay bị khiển trách bởi các phong trào phụ nữ.

Sự tổn thương hậu phá thai chính là một căn bệnh hủy diệt nghiêm trọng và liên lũy mà không có một người phụ nữ phát ngôn nổi tiếng nào, hay một chương trình truyền hình nào cũng như không một buổi nói chuyện tự thú nào, có thể diễn tả hết cho được.

Việc phá thai đụng chạm đến ba chiều kích chính về khái niệm tự nhận thức của người phụ nữ, đó là, bản năng giới tính, chiều kích đạo đức luân lý và căn tính từ mẩu của người phụ nữ. Nó cũng còn liên quan đến chuyện mất mát đứa trẻ, hay ít ra là sự mất mát về cơ hội được có con trở lại. Thì trong bất kỳ trường hợp nào đi nữa, thì sự mất mát này phải được diện đối, xử lý và sầu khổ.

Trong trường hợp bị sẩy thai, thì người mẹ cũng gánh chịu nổi mất mát về đứa con của mình. Sự khác biệt ở chổ là mức độ tội lỗi và sự xấu hổ mà người phụ nữ sau khi phá thai đã cảm nghiệm được vì lẽ, đó là một quyết định có chủ tâm nhằm tiêu diệt sự sống; còn ngược lại, với chuyện sẩy thai, thì nó xảy ra là do những nguyên do về tự nhiên. Với việc phá thai, sự mất mát của người phụ nữ là một chuyện thầm kín. Không có một sự hổ trợ nào hay an ủi nào mà người phụ nữ phá thai nhận được từ các bạn bè và gia đình của cô ta.

Điều quan trọng cần phải chú ý chính là: cũng có sự gia tăng về chuyện sẩy thai, không khác gì chuyện ly dị. Khi một người phụ nữ mất đi một đứa con mà mình mong muốn sau một cảm nghiệm về sự phá thai, thì những người phụ nữ đó thường cảm nghiệm được sự đau khổ và sự trầm cảm phức tạp, vì lẽ họ tin rằng chuyện sẩy thai chính là do “sự trừng phạt của Thiên Chúa” mà ra.

Từ bài phỏng vấn trên, chúng ta - nhất là những nam độc giả - nhận thức ra rằng, lổi lầm phá thai của những người phụ nữ, là đều do bởi chúng ta gây ra. Thế nhưng, rũi thay, tội lỗi, sự đau đớn, cùng với nỗi oan nghiệt, uất ức lại là do những người phụ nữ gánh lấy, suốt trọn cuộc đời của họ. Chúng ta - những người nam - đã tìm cách thỏa mãn, rồi lại bỏ mặc, phủ phàng, và gián tiếp gây nên tội ác với Thiên Chúa. Thì trong trường hợp này, có lẽ, vào ngày cánh chung, chúng ta sẽ phải chịu những hình phạt vô cùng đau đớn vì “tội ăn cháo, đá bát” phũ phàng và man rợ của chúng ta.



*   *   *

Trong Phần II của bài phỏng vấn này, Nữ Tiến Sĩ Theresa Burke, sáng lập viên của Nhóm Mục Vụ Vườn Nho của Rachel (Rachel’s Vineyard Ministries), giải thích làm thế nào mà sự sầu não lại chính là một ảnh hưởng tự nhiên của chuyện phá thai vốn có thể bùng nổ ra sau vài năm.

Nhóm Mục Vụ Vườn Nho của Rachel chuyên tổ chức những buổi tĩnh tâm cuối tuần cho những ai đang phải vật lộn với nổi đau về mặt tình cảm và tâm linh từ việc phá thai.



Trẻ Em: Kết Quả Diệu Kỳ của Tình Yêu Đôi Lứa

Hỏi (H): Thưa Cô, đâu là những hiểm họa của sự sầu não gây ra từ cảm giác tội lỗi của chuyện phá thai?

Cô Burke (T):
Thưa, vì phá thai là chuyện hợp pháp, do đó, nó được giả định cho rằng, đó là chuyện rất an toàn. Mà thực ra, nó thường được đề cập đến như là “quyền” của một người phụ nữ. Thì quyền hay đặc ân này, đáng lẽ ra phải giải phóng những người phụ nữ khỏi những gánh nặng về việc mang thai ngoài sự mong muốn của họ. Đúng lý ra, nó phải mang đến cho người phụ nữ một sự khuây khõa, giải thoát, thế nhưng nó lại mang đến cho họ một sự sầu não và trầm cảm triền miên.

Một trong những vấn nạn lớn nhất chính là khi người phụ nữ bị hành hạ(assault) bởi chính những phản ứng tự nhiên về sự mất mát của họ, thì họ lại không hiểu được rằng đâu là sự sai trái của những phản ứng đó. Rất nhiều người phụ nữ tìm đến việc chửa trị cho sự sầu não, trầm cảm, lo lắng, nghiện ngập, thế nhưng họ đơn giản không hiểu được nguồn cội về những căn bệnh của riêng họ. Trong rất nhiều trường hợp, họ bị cho thuốc và được chuẩn đoán, thế nhưng họ chưa bao giờ được hướng dẫn để hồi phục và được chữa lành.

Những ký ức và những tình cảm rối bời, chưa được giải quyết của họ về chuyện phá thai đã trở nên ngọn nguồn cho áp lực đè nặng lên họ, vốn sẽ được bùng nổ ra trong những năm sau này theo nhiều cách không thể ngờ được. Những tình cảm chưa được quyết đoán sẽ không chóng thì chày đòi hỏi sự chú ý của họ, thường là qua tiến trình phát triển về những tình cảm hệ quả hay sự bực tức rối loạn về những hành vi của họ.

Giáo Sư David Fergusson, một nghiên cứu gia tại trường Đại Học Y Kitô Giáo thuộc Tân Tây Lan, muốn chứng minh rằng việc phá thai không có một hệ quả tâm sinh lý nào cả. Thế nhưng, Ông ta đã ngạc nhiên khi tìm thấy rằng: những người phụ nữ nào đã từng có phá thai, thì hơn phân nửa có khuynh hướng lâm vào sự rối loạn về tinh thần, và rất nhiều người trong số họ, sẽ phải dùng rượu hay thuốc để giải sầu.

Fergusson đã theo dõi 500 người phụ nữ từ lúc sinh ra cho đến lúc 25 tuổi. Và nghiên cứu của Ông đã được trăng trong tạp chí chuyên về Tâm Thần Học và Tâm Lý Trẻ Em (Journal of Child Psychiatry and Psychology), vốn được đọc ra như sau: “Những ai đã từng phá thai thì có nguy cơ bị bệnh rối loạn tâm thần rất cao, gồm luôn cả bệnh trầm cảm (vốn sẽ tăng thêm 46%), sự lo lắng, thái độ tự tử muốn tìm đến cái chết, và việc lạm dụng các chất độc tố.”

Việc phá thai, thực chất, chịu trách nhiệm cho hàng loạt các vấn nạn như sau:

(1) Có một sự gia tăng lên khoảng 160% về tỉ lệ tự tử tại Hoa Kỳ, theo Tạp Chí chuyên về Bệnh Tâm Thần của Những Người Phụ Nữ (Archives of Women’s Mental Health), vào năm 2001 vừa qua.

(2) Có một sự gia tăng lên khoảng 225% về tỉ lệ tự tử tại Anh Quốc, theo Tạp Chí Y Học Anh Quốc (British Medical Journal) vào năm 1997 vừa qua.

(3) Có một sự gia tăng lên khoảng 546% về tỉ lệ tự tử tại Phần Lan, theo Tạp Chí Acta Obstetricia et Gynecologica Scandinavica, vào năm 1997 vừa qua.

Tổng cộng, tỉ lệ trung bình đẩy đến việc tử tự của ba nghiên cứu kể trên là 310%. Thì tỉ lệ tự tử quá cao này cho thấy rằng việc phá thai rõ ràng là trái ngược với chuyện thần thoại, hoang đường khi cho rằng việc chấm dứt chuyện mang thai thì an toàn hơn là việc sinh con.

Cuộc nghiên cứu dựa trên những kết quả đúng đắn nhất gắn liền với mức độ nảy sinh ra tình trạng suy thoái tinh thần theo sau việc phá thai tiết lộ cho thấy rằng trong vòng 4 năm sau kết quả của việc mang thai, những người phụ nữ nào phá thai từ 2 đến 4 lần, thì có khuynh hướng phải nhập bệnh viện tâm thần cao và nhiều hơn là những người phụ nữ quyết định giữ thai và sinh con từ 2 đến 4 lần.

Một cuộc nghiên cứu khác dựa trên những số liệu đáng tin cậy thậm chí cũng tiết lộ cho thấy rằng bốn năm sau khi đã phá thai, thì tỉ lệ nhập vào bệnh viện tâm thần vẫn còn là 67%, cao hơn rất nhiều so với những người phụ nữ không bao giờ có chuyện phá thai.

Những người phụ nữ đã phá thai thường có khuynh hướng được chuẩn đoán rằng họ có những phản ứng rối loạn, chứng rối loạn tâm thần trầm cảm (depressive psychosis), rối loạn thần kinh chức năng (neurotic), và những bất ổn lưỡng cực (bipolar disorders), theo như Tạp Chí chuyên về Bệnh Tâm Thần của Những Người Phụ Nữ.

Mối nguy hiểm của bệnh trầm cảm và chứng rối loạn tâm thần trong những lần sinh đẻ sau này cũng thường được liên kết với việc phá thai trước đó. Trung bình là tám năm sau khi đã phá thai, có đến 138% những người phụ nữ có gia đình có khuynh hướng bị bệnh trầm cảm rất cao so với những người phụ nữ mang thai trọn vẹn trong suốt thời kỳ có thai đầu tiên của họ. Kết luận này được dựa trên nghiên cứu của Tạp Chí Y Học Anh Quốc vào ngày 9 tháng 1 năm 2002.

Trong trường hợp lạm dụng thuốc và rượu, bia, chúng ta thấy có rất nhiều người phụ nữ đang cố diện đối với sự mâu thuẩn và sự sầu não nội tâm của họ, thì tỉ lệ này cao đến 4.5 lần so với sự lạm dụng về các độc chất sau thời kỳ phá thai. Và số liệu này chỉ được dựa trên những ai báo cáo về việc lạm dụng các độc chất mà thôi.

Hãy nghĩ đến tất cả những ai nghĩ rằng cứ mỗi đêm họ chỉ cần đơn giản uống vào 8 ly rượu, thì họ có thể “quay ngược chiều gió hay rũ bỏ đi sự sầu não ngay.” Khía cạnh này đã được báo cáo trong Tạp Chí Lạm Dụng Thuốc và Rượu Hoa Kỳ (American Journal of Drug and Alcohol Abuse) trong năm 2000.

Những kết quả của cuộc nghiên cứu quốc tế lâu dài, được hướng dẫn bởi Bác Sĩ Vincent Rue tiết lộ rằng có những bằng chứng đáng sợ cho thấy chứng rối loạn của sự căng thẳng là do hệ quả của việc phá thai.

Thống kê được thâu thập tại Hoa Kỳ tiết lộ các điều sau:

(a) 55% những ai đã từng phá thai báo cáo cho biết rằng họ có những cơn ác mộng và sự ám ảnh (preoccupation) cùng với việc phá thai.

(b) 73% mô tả là bị cảnh hồi tưởng (flashbacks)

(c) 58% những người phụ nữ báo cáo rằng họ luôn có những ý nghĩ về tự tử, vốn có liên hệ trực tiếp đến việc phá thai.

(d) 68% tiết lộ rằng họ cảm thấy quá xấu hổ về chính bản thân của họ.

(e) 79% tường thuật rằng họ có tội, và không có đủ bản năng để có thể tự tha thứ cho họ được.

(f) 63% cho biết có những sự sợ hãi liên quan đến những lần mang thai và làm mẹ trong tương lai.

(g) 49% gặp rất nhiều trở ngại khi phải đến gần các em bé.

(h) 67% tự cho họ là những người “bị chai cứng đi về mặt tình cảm.”

Một cuộc rà xét quy mô của rất nhiều cuộc nghiên cứu khác và những cảm nghiệm chắc chắn về mặt lâm sàng ám chỉ rằng đối với rất nhiều người phụ nữ, những hoạt động khác thường ban đầu của dục tính, những chứng rối loạn về ăn uống, cùng với sự hút thuốc gia tăng, những rối loạn về sự âu lo và hốt hoảng, và những mối quan hệ bị lạm dụng và vũ phu, đã trở thành món quà tặng của kiểu sống mà họ phải diện đối sau khi đã chứng kiến việc họ phá bỏ đi bào thai.

(H): Thưa Cô, có một lý do về mặt khoa học hay chính trị nào đó về việc không muốn cho cuộc nghiên cứu này được trở thành hiện thực, vì chưng nó đã chứng tỏ cho thấy rằng: rõ ràng là có một sự liên kết giữa sự phá thai với sự sầu não không ?

(T):
Thưa, trên bình diện xã hội, chúng ta biết cách tranh luận như thế nào về chuyện phá thai, và xem đó như là một vấn đề mang tính chính trị, thế nhưng chúng ta không biết cách làm thế nào để nói về nó trên bình diện thân mật, cá nhân của con người.

Không có một tiêu chuẩn nào cả về mặt xã hội có liên quan đến sự phá thai. Mà thay vào đó, tất cả đều cố lẫn tránh nó. Một trong những lý do khiến chúng ta không muốn nói về sự đau khổ của người phụ nữ và người đàn ông, những người đã từng phá thai, là vì, chúng ta, với tư cách là một xã hội, bị sâu xé quá nhiều về vấn đề phá thai. Trong khi đó, phần lớn thì tin rằng phá thai phải được hợp pháp hóa trong một vài hoàn cảnh, và hầu như những người có đạo đức, có lương tâm, thì họ cảm thấy rất khó chịu về điều đó.

Theo một cuộc thăm dò chính thức, 77% công chúng tin rằng phá thai chính là việc cướp đi mạng sống con người, với 49% cho rằng điều đó cũng đồng nghĩa với chuyện giết người, chuyện diệt chủng.

Chỉ có 16% tin rằng phá thai chỉ là “một thủ tục giải phẩu về việc tách rời đi tủy sống con người.” Thậm chí 1/3 trong số những người tự cho rằng họ ủng hộ việc tự do chọn lựa (pro-choice), vẫn phải nhìn nhận rằng họ tin chuyện phá thai là lấy mất đi mạng sống của con người.

Điều này được tường thuật trong cuốn sách của James Davison Hunter xuất bản vào năm 1994 có nhan đề: “Trước Khi Cuộc Bắn Phá Bắt Đầu: Tìm Kiếm Sự Dân Chủ trong Cuộc Chiến Văn Hóa của Hoa Kỳ” (Before the Shooting Begins: Searching for Democracy in America’s Cultural War).

Thì những khám phá này đề nghị rằng hầu hết những người Hoa Kỳ đặt tín ngưỡng về mặt đạo đức luân lý của họ trong trạng thái “cầm chừng” hay “để qua một bên” khi họ nói đến chuyện phá thai vì việc tôn trọng về “quyền của những người phụ nữ được chọn lựa.”

Với tư cách là một xã hội, chúng ta chọn cách để khoan dung, để bỏ qua những cái chết của những trẻ thơ chưa được sinh ra vì mục đích cải thiện đời sống của những người phụ nữ. Tuy nhiên, với sự thỏa hiệp về mặt đạo đức luân lý theo kiểu này, thì rõ ràng là chúng ta bị bẻ mặt khi những người phụ nữ này than phiền về sự đau khổ của họ sau khi đã phá thai.

Nghĩa là họ đã biến cho những thính giả của họ cảm thấy không được thoải mái cho lắm và cảm thấy rất xáo trộn, và bối rối vô cùng.

Sự sầu não về chuyện phá thai trong quá khứ buộc chúng ta không chỉ nhìn vào nổi đau của từng cá nhân, mà còn cả cảm giác tội lỗi, hối hận (angst) của xã hội chúng ta. Đó đúng là một vấn đề cực kỳ phức tạp, khó chịu, và rắm rối cao độ. Hầu hết chúng ta không muốn nhìn vào vấn đề này quá sâu sắc.

Những người cổ võ cho chuyện tự do chọn lựa vẫn thường rất ngần ngại để dám nhận ra hiện thực về nổi đau sau khi đã phá thai vì họ sợ rằng một cách nào đó, điều này sẽ làm suy yếu đi cái cách lập luận về mặt chính trị của họ để hợp pháp hóa chuyện phá thai.

Trái lại, việc coi thường những bằng chứng này, hầu hết những người cố vấn phá thai sẽ nói với những người phụ nữ rằng những phản ứng về mặt tâm, sinh lý của chuyện phá thai là rất hiếm, thậm chí không bao giờ xảy ra. Nói chung là, tất cả những gì gợi lên sự không hài lòng hay khó chịu, đều bị họ tìm cách lẫn tránh hoàn toàn. Vì với những sự thật như vậy, họ sợ rằng, có thể “thuyết phục những người phụ nữ rút lui hay từ bỏ đi ý định muốn phá thai của họ.”

Hay nói cách khác, sự chọn lựa được đưa ra bằng việc họ dấu đi những thông tin khiến cho những người phụ nữ mang thai biết được sự thật, biết được về những hệ quả, nghiêm trọng khó lường, bằng không thì những người phụ nữ mang thai này, sẽ không đồng ý phá thai.

Sự thông đồng, cấu kết (collusion) của sự ngu muội và chối từ những sự thật, đã gây ra sự lạm dụng và bỏ mặc chống lại những người phụ nữ, tạo tiền đồ cho một sự sầu não, đau khổ, chấn thường sâu đậm và dai dẵng, như một vết thẹo khó mà tẩy đi cho được, trọn suốt cả cuộc đời của những người phụ nữ.

(H): Thưa Cô, liệu Cô có nghĩ rằng điều này sẽ ngăn cản (deterrent) những người phụ nữ muốn phá thai khi họ biết được cơ may về căn bệnh sầu não, trầm cảm sẽ xảy ra nơi họ sau khi họ đã phá thai không?

(T): Thưa, tôi hy vọng thế. Những người phụ nữ có quyền biết những nguy hại mà họ diện đối khi họ đưa ra sự chọn lựa về việc có nên phá thai hay không. Bất kỳ thuốc hay thủ tục y khoa nào mà chúng ta “chọn” thì được yêu cầu, theo mặt pháp luật, là chúng ta phải được giải thích cặn kẽ. Điều này có nghĩa là chúng ta phải biết được điều gì có liên hệ trong đó, thủ tục đó là gì, và đâu là những nguy hiểm ngắn và dài hạn. Thì đây chính là nguồn thông tin quan trọng.

Trước những con số thống kê gây ra sự khó chịu có liên quan đến những nguy hiểm về bệnh tâm thần, mức độ nguy hiểm gia tăng về việc bị bệnh ung thư vú, vân vân, thì rõ ràng là những sự dè dặt, kiềm chế và những quy định là cần thiết trong việc bảo vệ sức khỏe sinh sản và tâm sinh lý của những người phụ nữ. Quan trọng hơn nữa, chính tôi tin rằng cả phụ nữ lẫn nam giới nào đã phải gánh chịu sự mất mát con trẻ qua việc phá thai, đều biết rằng vẫn còn có hy vọng và sự chữa lành. Họ cần biết rằng họ không phải côi độc một mình.

Vào năm 1989, một nhóm gồm các chuyên gia của Hiệp Hội Tâm Lý Hoa Kỳ (American Psychological Association hay APA) đã đồng loạt kết luận rằng việc hợp pháp hóa chuyện phá thai “không tạo ra những nguy hiểm về mặt tâm sinh lý nào cho hầu hết những người phụ nữ trải qua thủ tục này.”

Nhóm các chuyên gia này lưu ý rằng những phản ứng tình cảm trầm trọng lại chính là chuyện đương nhiên, thì nếu mà những người phụ nữ gặp phải sự lan truyền này, thì họ nên tìm đến cách chữa trị về mặt tâm lý. Nhóm cũng tuyên bố rằng không có bằng chứng nào cả cho thấy có một sự lan truyền như vậy. Thì kể từ năm 1989 và mãi cho đến hôm nay, vẫn chưa có những thay đổi quan trọng nào về quan điểm này của họ. Rõ ràng là họ đã không theo dõi gì cả về sự phát triển của Nhóm Mục Vụ Vườn Nho của Rachel!

Trong năm 2006, tổ chức của chúng tôi đã tổ chức 450 buổi tĩnh tâm cuối tuần để giúp chữa lành sau khi phá thai. Mỗi một cuộc tĩnh tâm có khoảng từ 12 đến 25 tham dự viên. Điều đó có nghĩa là khoảng từ 5,400 đến 11,250 người sẽ đến tìm cách chữa trị trong những năm sắp tới.

Mục Vụ của chúng tôi đang gia tăng lên khoảng 40% mỗi năm. Chỉ trong vòng bảy năm qua, hàng ngàn người nam và nữ đã đến yêu cầu sự giúp đỡ của chúng tôi, khi Nhóm Mục Vụ Vườn Nho của Rachel đã mở rộng địa bàn hoạt động tới cả Phi Châu, Đài Loan, Nga Sô, Anh Quốc, Ái Nhĩ Lan, Tô Cách Lan, Tây Ban Nha, Bồ Đào Nha, Nam Mỹ, Canada, và trên khắp Hoa Kỳ.

Có hàng trăm mục vụ khác nhau chuyên về hậu phá thai nảy sinh ra khắp mọi nơi. Chính vì thế, miễn cho những gì mà Hiệp Hội APA nghĩ, thì chỉ có những người trong chúng tôi, mới biết được sự thật. Có một sự lây lan vốn đã bị nhục nhã (disgracefully) bỏ qua, bị chuẩn đoán sai lầm một cách trầm trọng, thô thiễn và đã không được chữa trị.

Muốn biết thêm chi tiết về Nhóm Mục Vụ Vườn Nho của Rachel, mời Quý Vị hãy vào trang web tại địa chỉ: http://www.rachelsvineyard.org







Góp nhặt bởi : Hà An - Vài lời tâm sự

Tôi chỉ là một thành viên vô dụng của nhóm Bảo Vệ Sự Sống Thái Hà, muốn đóng góp công sức nhỏ bé của mình chống lại thảm họa phá thai, chống lại nền văn hóa sự chết đồng thời vun đắp cho nền văn minh sự sống và tình yêu thương. Mượn lời của Mẹ Teresa thì những việc tôi làm chỉ như giọt nước giữa đại dương, nhưng nếu không có thì hẳn đại dương sẽ thiếu đi một giọt nước.

0 bình luận:

Đăng nhận xét