Home » , , » Những tác động của cuộc cách mạng tình dục

Những tác động của cuộc cách mạng tình dục

ĐGM. Jean Laffitte,
Thư ký Hội đồng Giáo hoàng Đặc trách Gia đình


Toàn văn bài nói chuyện của ĐGM Jean Laffitte, tại Diễn đàn Quốc tế Giới trẻ lần thứ X diễn ra ở Rocca di Papa, gần Roma, từ 26 đến 28-3-2010, với chủ đề: “HỌC YÊU THƯƠNG”.

***

Trước khi giải thích những gì người ta hiểu về các tác động của cuộc cách mạng tình dục và từ những tác động của nó - chủ đề truyền thông yêu cầu tôi nói - tôi xin được nói trong bối cảnh nào đã có những nhận xét tiếp theo sau. Những nhận xét này được đặt vào khuôn khổ một hội thảo bàn tròn có tên gọi “Những lệch lạc của tình dục ngày nay”. Cần thiết phải làm một tiền đề: một đề tựa như thế dường như sẽ hướng suy tư của chúng ta một cách tiêu cực (thụ động), nếu như chúng ta chưa nghe trong những bài thuyết trình trước, những lời giảng dạy và những chứng từ về vẻ đẹp của tình yêu con người, về việc thực hành tình dục trong khuôn khổ một quan hệ hôn nhân, nghĩa là sự trao ban dứt khoát và giữa hai bên mà một người nam và một người nữ đem cho con người mình phục vụ sự đồng cảm và sự sống. Sẽ thích hợp ngay từ khởi điểm luôn để tâm tới tất cả những gì đã được chuyển cho chúng ta sáng nay, hôm qua, hôm kia về ơn gọi đến với tình yêu, tiếng mời gọi lớn lên trong hiệp thông và ơn gọi nên thánh cho mọi người nam và mọi người nữ. Quả thật, chỉ có dưới ánh sáng tích cực này về con người, những khát vọng, thân thể hữu tính một cách khác nhau và những hành vi diễn tả một cách thân mật nhất tình yêu của một người nam và một người nữ, những người đã thật sự trao ban cho nhau, mà người ta mới hiểu được những gì đã diễn ra từ một nửa thế kỷ trong lịch sử tư duy và các phong tục con người và người ta chỉ định với cụm từ “cách mạng tình dục”.

ĐÔI NÉT LỊCH SỬ

Người ta gọi “cách mạng tình dục”, tổng thể những thay đổi xảy ra và tác động trong các xã hội Tây phương của nhãn quan về tình dục và thực hành tình dục, cũng như về sự giải phóng các phong tục. Về phương diện lý thuyết, cuộc cách mạng này trước tiên tự bản chất mang tính triết học, nhân chủng học, đạo đức và xã hội. Về phương diện các phong tục, đó trên hết là một sự lật đổ hoàn toàn đạo đức học tình dục, những thói quen trong cuộc sống và những bộ máy lập pháp trong rất nhiều quốc gia. Dưới một góc độ pháp luật, cũng có thể nói về một cuộc cách mạng thật sự. Chính cụm từ “cách mạng tình dục” đã được phát minh trong thập niên 1920 do Wikhelm Reich và Otto Gross khi họ muốn triển khai trong một viễn cảnh xã hội học các kết quả những công trình của Sigmund Freud [tên đầy đủ là Sigmund Schlomo Freud, 6/5/1856–23/9/1939; nguyên là một bác sĩ về thần kinh và tâm lý người Áo; được công nhận là người đặt nền móng và phát triển lĩnh vực nghiên cứu về phân tâm học. Cho đến ngày nay mặc dù lý thuyết về phân tâm học của ông còn gây nhiều tranh cãi và người ta còn đang so sánh hiệu quả của các phương pháp phân tâm học của ông với các phương pháp điều trị khác, nhưng cũng phải thừa nhận rằng ông là một nhà tư tưởng có ảnh hưởng lớn trong thế kỷ 20 - Wikipedia]. Freud là người khởi xướng một khoa học mới mà người ta gọi là phân tâm học, mà một trong các thành tựu cho thấy mối liên hệ giữa mọi cách ứng xử và tập tính con người với cái libido (dục tình). Nhưng cái mà Freud muốn triển khai trong khuôn khổ một liệu pháp tâm lý cá nhân, thì một số trong các môn đệ của ông sẽ triển khai trong một viễn cảnh xã hội. Những gì được nói về giới tính, vốn cho tới bấy giờ luôn được rào đón với dè dặt, bẽn lẽn và hạn chế ở lĩnh vực một cuộc điều trị tâm lý, thì sắp dần dà trở thành một đề tài thảo luận công khai, làm dấy lên cả một loạt các nghiên cứu, bài viết đủ loại và những yêu sách chính trị. Cuộc cách mạng này gồm điều này mà một diễn từ về tính dục, cho tới khi đó bị giới hạn ở mối liên hệ với sự sinh sản, từ nay sẽ tập trung vào tính dục con người như là động năng thuần tuý làm phấn khởi về mặt thể lý và một cách đã trở nên toàn toàn tự trị so với việc truyền sự sống có thể có.

Chúng ta đã có chìa khoá đầu tiên về nhận thức: diễn từ về tính dục con người sẽ không bị giới hạn lâu ở mô tả các hiện tượng tâm lý tình cảm và sinh dục. Quả thật, những nghiên cứu sắp được triển khai tiếp theo sẽ liên quan đến việc thực hành tình dục như là chính nó hoặc chính xác hơn, những thực hành tình dục như là người ta gặp thấy cụ thể trong xã hội loài người. Kể từ thời điểm tình dục bị tách ra về mặt xã hội, khỏi cứu cánh chủ yếu của nó là truyền sự sống trong khuôn khổ một tương quan bền vững giữa một người nam và một người nữ, thì người ta hiểu rằng mọi cân nhắc về các thái độ tình dục của nam và nữ sắp không còn là điều cấm kỵ nữa. Những đề tài trước đây chưa hề được nêu ra ở chốn công cộng, thì nay sắp trở thành đối tượng chuyện trò hằng ngày: việc thực hành đồng tính nam hoặc nữ, việc tìm kiếm khoái lạc tối đa trong quan hệ, yêu sách một tình dục tách rời khỏi mọi ràng buộc và trách nhiệm.

Chiếc chìa khoá thứ hai để hiểu, là sự việc những điều này đem nói công khai tầm thường hoá chiều kích bí mật, tiết hạnh và tuyệt đối riêng tư của việc thực hành tình dục. Thực tế, việc chuyển qua được thực hiện một cách tự nhiên từ ngôn từ “trơ trẽn” sang đòi một sự tự do hoàn toàn trong ứng xử tình dục. Cuộc cách mạng văn hoá trở thành một cuộc cách mạng chính trị. Không phải ngẫu nhiên mà những nhà lý luận lớn như Reich và Marcuse đã công khai dựa vào nghĩa duy vật biện chứng của Karl Marx.

Chìa khoá thứ ba. Cuộc cách mạng tình dục vì thế không thể bị giới hạn ở cách ứng xử giữa cá nhân với nhau (interpersonal). Nó trở thành một cuộc cách mạng xã hội thật sự mà tham vọng ngày càng công khai để lộ ra là triệt để đặt lại vấn đề tất cả mọi nền tảng xã hội dân sự và tôn giáo. Người ta dễ dàng hiểu điều đó, vì tính chất sự công khai được đem cho những chủ đề cho tới đó chỉ dành cho sự thân mật riêng tư tuyệt đối của những con người, mang mầm mống sự tranh cãi triệt để về cơ chế gia đình - khuôn khổ dân sự duy nhất nơi xét về tổng thể tự giới hạn việc thực hành năng lực tình dục - và sự tranh luận của các giáo hội, với tư cách là những trường hợp luân lý mang trong mình một diễn từ đạo đức học và thiêng liêng về phẩm giá mà theo chúng là cần thiết của những hành vi bao hàm sự kết hợp sâu xa của người nam và người nữ. Chìa khoá này giúp chúng ta hiểu rằng một lời nói tầm thường hoá việc thực hành tình dục, dưới những hình thức thay đổi nhất và mâu thuẫn nhất của nó, sẽ góp phần vào một sự lật đổ triệt để tất cả mọi giá trị vốn đã gắn chặt trong hiều thế kỷ xã hội con người: sự độc quyền quan hệ yêu đương giữa vợ chồng; sự tôn kính sự sống con người, mà việc truyền lại luôn xuất hiện như một phúc lành, lòng yêu thương con cái, cái nhìn về các thế hệ tương lai, kính trọng các thế hệ đi trước, ý thức cá nhân và gia đình về lịch sử, tính chất tôn giáo của cam kết vợ chồng luôn dẫn đến một cử hành phụng vụ trong tất cả mọi tôn giáo và cuối cùng là sự bảo vệ tính chất thân mật riêng tư của người ta, nhất là của những người trẻ.

Chìa khoá thứ tư. Việc đặt lại vấn đề luân lý của Giáo Hội và luận lý của các gia đình - được trình bày đôi nét sơ sài như là một luân lý “tiểu tư sản”, theo cách nói macxít của các nhà lý luận đương thời - nhất thiết được trình bày như một sự giải phóng khỏi ách của một đạo đức học Do Thái giáo – Kitô giáo và một truyền thống gia đình nặng tính gia trưởng.

Chìa khoá thứ năm. Một cách mạch lạc, việc đòi lại một sự tự do tình dục hoàn toàn, cũng như sự nổi lên của một luân lý hoàn toàn tự do buông thả cách nay vài chục năm là điều không tưởng, sẽ bị đi kèm bởi sự phủ nhận mọi tiêu chí quyền bính trong bất cứ lĩnh vực nào: gia đình, chính trị, giáo dục, tôn giáo. Do vậy sẽ bị tranh cãi triệt để và quyết liệt: hình ảnh ông bố giữa lòng gia đình; hình ảnh người cai trị giữa lòng quốc gia; hình ảnh giáo viên hay giáo sư giữa lòng hệ thống giáo dục; hình ảnh thẩm quyền đạo đức luân lý và tinh thần của các linh mục, các giám mục và Huấn quyền Giáo Hội nói chung. Việc bỏ sạch tất cả mọi trụ cột mang nơi mình xã hội tiêu biểu cho phong trào được mô tả bởi diễn đạt Tháng 5-1968 vốn chỉ cả những sự kiện chính xác rất ngắn và rất dữ dội lẫn một luồng tư tưởng tự do vô chính phủ, mà những vấn đề tế nhị làm lay động các xã hội chúng ta ngày nay, diễn tả gia tài đó.

Xét về lịch sử, thời kỳ 1930 đến 1990 đã làm nảy sinh những cuộc cải tổ chính trị và xã hội, vốn là bằng ấy giai đoạn tượng trưng mạnh mẽ: năm 1948 công bố Báo cáo Kinsey liên tiếp dẫn đến những nghiên cứu về ứng xử tình dục của nam giới, rồi chỉ mấy năm sau đó, nghiên cứu về ứng xử tình dục của nữ giới. Những nghiên cứu này được thực hiện trong khuôn khổ Đại học Bang Indiana chắc chắn đã gây ra những xáo động, cuối cùng buộc phải chấp nhận: quả thực tiếp sau đó là Báo cáo Masters và Johnson năm 1966; cuối thập niên 1950, phát minh viên ngừa thai phụ nữ được đưa ra thị trường năm 1960 ở Hoa Kỳ, rồi ở Châu Âu những năm tiếp theo.

Chung chung các năm thập niên 1960 là thời gian xảy ra những tranh luận sôi nổi về ngừa tránh thai. Như ta biết, lập trường của Giáo Hội có niên đại từ Tông thư Humanae Vitae công bố ngày 25-7-1968. Năm 1975, luật đầu tiên về hợp pháp hoá nạo phá thai ở Pháp với Luật Veil. Đầu những năm thập niên 1980, phát triển những phương pháp thụ tinh ống nghiệm: từ nay có khả năng gây ra sự hiện hữu của một sự sống con người ở ngoài mọi quan hệ tình dục giữa một người nam à một người nữ.

Trong những năm thập niên 1980, bãi bỏ sự khác biệt giữa con cái hợp pháp và con cái tự nhiên liên quan đến quyển thừa kế trong nhiều quốc gia Châu Âu.

Trong cùng những năm đó, tranh cãi công khai về an tử và những biện pháp pháp lý nhằm hợp pháp hoá nó trong nhiều quốc gia Châu Âu.

Năm 1998, quy chế pháp lý đầu tiên cho những kết hợp thực tế.

Cuối cùng, trong những năm các thập niên 1990 và 2000, phát triển những áp dụng di truyền học trong viễn cảnh không còn chỉ nhằm mục đích chữa trị, mà nhắm ưu sinh.

Trong những năm thập niên 1950 và 1960, cần nên để ý về mặt văn hoá, sự biến mất dần của mọi tiêu chuẩn kiểm duyệt nghệ thuật, nhất là về điện ảnh. Sự biến mất của kiểm duyệt điện ảnh này chỉ là biểu hiện ngoạn mục nhất của việc huỷ bỏ mọi cái sàng lọc trong văn hoá nghệ thuật nói chung: văn chương, hội hoạ và các dòng âm nhạc đa dạng.

Ngày nay, ta biết rằng đã có một sự phá đổ có hệ thống mọi tiêu chuẩn vốn trước đó đã dẫn tới áp dụng sàng lọc đạo đức trong việc diên những màn phim ảnh (huỷ bỏ bộ quy tắc Hays vào năm 1966, phát triển những màn khiêu dâm, rồi mở rộng công nghiệp sách báo phim ảnh khiêu dâm).

Từ tóm tắt vắn gọn những cuộc cải tổ tượng trưng, vốn đã ghi dấu ấn các xã hội Âu Tây và có khuynh hướng lan rộng ra trong tổng thể những sự làm luật trên thế giới, có thể rút ra những chìa khoá khác để hiểu rõ.

Chìa khoá thứ sáu. Kể từ lúc người ta tách rời trong tình dục khỏi chiều kích sinh sản, người ta nhất thiết sẽ đi tới 2 hệ quả có thể: sự phát triển một tình dục thuần tuý theo chủ nghĩa khoái lạc, hoàn toàn thiếu sự dấn thân có trách nhiệm. Những tác động trở nên hiển nhiên: phát triển tình dục ngoài hôn nhân (nghĩ là ngoài tinh thần trách nhiệm trong khuôn khổ một quan hệ bền vững), thủ tiêu sự cần thiết nghĩ về tình dục liên kết với quà tặng sự sống, điều này kéo theo việc người ta chạy đến ngừa tránh thai và đánh mất dần ý thức về vẻ đẹp của việc truyền sự sống. Mang thai trở thành một đe doạ. Cuối cùng, khả năng một sự sinh đẻ toàn toàn xa lạ với một quan hệ tình dục kéo theo sự biến mất có thể của ngữ cảnh tính yêu, trong đó việc truyền sự sống được thực hiện trong lịch sử con người cho tới ngày nay. Ngoài ra, nó mở đường cho mọi sự nhào nặn thao túng sự sống con người, biến đứa trẻ chỉ còn theo thoả mãn của sợ thích cá nhân.

Chía khoá thứ bảy. Trong tổng số những cải tổ này, không có bất cứ lúc nào ích lợi của đứa trẻ được tính đến như là yếu tố chính, về quyền được sinh ra từ một quan hệ bền vững và yêu thương của cha mẹ cháu. Ta có thể quan sát điều tương tư đối với việc đưa ra luật cho phép ly dị. Với trường hợp này, có lẽ phải để ý tới sự thủ tiêu tính chất linh thánh của hôn nhân, tình chất vốn được tôn vinh một cách tự nhiên trong các luật dân sự trước khi xuất hiện ly dị hợp pháp.

Chìa khoá thứ tám. Trong lĩnh vực y khoa, nhiều ứng xử tình dục đặc thù từ đầu những năm thập niên 1980 đã thôi bị giới thiệu như là những trường hợp bệnh lý (đồng tình nam và đồng tính nữ).

Chìa khoá thứ chín. Trong lĩnh vực giáo dục, tình dục con người được trình bày trong những sách giáo khoa về sinh học ở những trường trung học chỉ gói gọn ở trình bày sinh lý học quan hệ tình dục, mà không nhắc gì tới chiều kích tâm lý học, cảm xúc và đạo đức học. Trong những năm gần đây nhất, người ta chứng kiến một sự trình bày các cách ứng xử thiểu số dưới hình thức những thái độ tầm thường và hợp pháp. Những ứng xử ngày xưa bị đồng nhất coi như lầm đường lạc lối, thì nay được giới thiệu như hoàn toàn bình thường. Trong một số lớn hệ thống giáo dục Châu Âu, có dạy một hình thức đạo đức học mới được tiêu biểu bởi sự nổi lên của giá trị thiên về thuyết tương đối như là sự bao dung, dưới hình thức ý thức hệ. Xuất hiện những sự vượt quá giới hạn dân sự: ghét con người, phân biệt đối xử về tình dục, bất bao dung…

Chìa khoá thứ mười. Nghiên cứu theo thứ tự thời gian tất cả những cải tổ này, cho thấy một ý định thật sự áp đặt một đạo đức học mới: người ta chứng kiến một sức ép chính trị rất mãnh liệt của các tổ chức quốc tế trên những việc làm luật quốc gia khác nhau, nhằm áp đặt những tiêu chuẩn đạo đức học mới. Điều này được thực hiện qua việc tạo ra những khái niệm mới, chẳng hạn như khái niệm về sức khoẻ sinh sản. Trường hợp nạo phá thai là điển hình về vấn đề này, trong những năm thập niên 1975 người ta nói về sự hợp pháp hoá nạo phá thai. Ít năm sau, cụm từ tự do hoá nạo phá thai được áp đặt; mấy năm sau nữa, người ta nói tới quyền nạo phá thai; cuối cùng “quyền” này được phát biểu rõ: quyền của nữ giới sử dụng thân thể của họ. Người ta hiểu rằng những động cơ thúc đẩy nêu ra ban đầu (tránh phá thai lén lút) thực ra chỉ là những cái cớ để dấn thân trên con đường cải tổ có tính cách mạng này, là hợp pháp hoá quyền của những người lớn giết các trẻ em trong lòng mẹ chúng. Hơn nữa, hãy quan sát sự tổng quát hoá việc chạy đến ngừa tránh thai từ 40 năm qua, đã chẳng làm giảm bớt chút nào con số những vụ nạo phá thai.

Chìa khoá thứ mười một. Từ đầu các năm thập niên 1980, vi rút AIDS đã lan truyền. Lúc khởi đầu, bệnh này truyền trong những môi trường có nguy cơ: môi trường đồng tính, nghiện ma tuý. Đối với mọi thứ bệnh lây nhiễm qua đường tình dục khác, người ta luôn khuyên về mặt y khoa, nên tránh những ứng xử có nguy cơ này (lao, viêm gan C), nhưng với bệnh AIDS, một biện pháp như thế giống như một sự kết án về mặt chính trị những ứng xử có nguy cơ, và do vậy, một sự đặt lại vấn đề những gì cuộc cách mạng tình dục đã làm được. Chính như thế mà đã phát triển một hành động phòng ngừa hoàn toàn tập trung trên ngừa tránh thai, với những kết quả mà ta đã biết. Hãy để ý rằng 3 quốc gia đã thử một chiến lược khác dựa trên giáo dục các thanh thiếu niên sống tiết chế hoặc hạn chế nghiêm nhặt với người bạn tình độc nhất, đã cho những kết quả ngoạn mục trong thời gian không đầy 2 hoặc 3 năm (Uganda, Zimbabwe, Tanzania), khi người ta áp đặt cho họ sự quay về lại với một chính sách phổ biến có hệ thống các thuốc ngừa thai, những trường hợp lây nhiễm thật không may là bị phân bố cao.

Chìa khoá thứ mười hai. Ta có thể đọc thấy trong ý muốn này của các quốc gia áp đặt một văn hoá mới và một đạo đức mới. Ước muốn đi đến một sự làm chủ hoàn hảo sự sống con người, đặc biệt là làm chủ việc truyền sự sống. Một trong những lý do thường được đưa ra là cái gọi là nạn nhân mãn (dân số quá đông) thế giới mà theo lời họ, gây ra nghèo đói, lầm than và bệnh tật. Phải lưu ý rằng nỗi lo sợ nạn nhân mãn chung chung được các quốc gia Tây phương nêu lên. Nhưng trừ một vài ngoại lệ, thì chính các quốc gia này đang chịu một điều xấu ngược lại, một sự sụp đổ dân số, kèm theo một sự già đi đáng kể dân số của họ. Về bình diện kinnh tế, điều đó cuộc nhiều nước trong các quốc gia ấy phải thuận cho dòng chảy di dân để bù vào sự thiếu hụt nhân công. Như vậy, có một nghịch lý rằng các quốc gia này vốn một đàng cứ cho là họ làm chủ dân số thế giới, một đàng lại không có khả năng làm chủ chính vấn nạn của họ. Không còn nghi ngờ gì nữa rằng sự đánh mất cảm thức về vẻ đẹp của sự sống mà chúng ta đã nêu lên, bắt đầu đặt ra vấn đề cho thời hạn 2 hay 3 thế hệ của việc biến mất của một số dân số nhất định. Việc chứng minh thống kê của tình trạng sự việc này đòi hòi một triển khai lâu dài hơn nữa.

Bức tranh toàn cảnh vắn gọn này sẽ có vẻ đáng báo động với bạn. Quả là nó đáng báo động về mặt xã hội, chính trị và đạo đức. Tuy nhiên, tôi muốn kết thúc truyền đạt này bằng một ghi chú chẳng có chút hy vọng nào. Nhưng ngược lại, tôi tin rằng những tình huống hiện tại đối với tất cả những người thiện tâm thiện chí, và nhất là đối với các Kitô hữu, là một lời mời gọi quan phòng để đào sâu ý nghĩa của tất cả những gì đang vào cuộc trong một quan niệm quân bình lành mạnh và thánh thiện về sự sống con người, và việc truyền sự sống bằng thực hiện khả năng tình dục. Sự phong phú của tình dục trong ý định của Thiên Chúa là nó phải được đào sâu không ngừng. Toàn bộ những bài nói chuyện mà các bạn có thể nghe được trong những ngày gần đây nhất đã cho các bạn thấy ơn gọi của mọi người nam và mọi người nữ tới hiệp thông, và từ đó, tới thánh hoá. Khi người ta ở vào một tuổi trẻ trung trong ngữ cảnh văn hoá mà chúng ta đã nói, vẫn luôn còn lại một chiều kích cá nhân mà bất cứ thuyết tương đối đạo đức học nào và bất cứ một ý thức hệ văn hoá nào cũng không thể động tới: sự tự do cá nhân của người nào muốn đáp lại tiếng mời gọi này được khắc ghi trong thân thể họ, trong các ước ao của họ, trong những khát vọng của họ, trong ý chí truyền sự sống của họ kết hợp với người mà người đó muốn chia sẻ cuộc sống. Trong chiều hướng này, không có lý do gì để bi quan, nếu người ta xem xét những gì đã được ban cho chúng ta trong một cái nhìn đức tin. Sự hiểu biết ngữ cảnh văn hoá mà ta nói đến, phải giúp chúng ta đơn giản là được nên sáng suốt, trở nên tự do hơn trước những xúi giục gạ gẫm mặc nhiên hay minh nhiên mà xã hội truyền thông - vốn là xã hội của chúng ta - mang theo. Ngoài ra, sự hiểu biết này giúp chúng ta biết thận trọng, phân tích, tìm kiến những tình bạn chắc chắn. Ngày nay hơn bao giờ hết, chính sự dũng cảm về mặt con người và về mặt tinh thần và trong sức mạnh của tâm hồn mình mà một thanh niên sẽ tìm được những cách thế sự tự do của chính mình được kêu gọi triển nở trong việc trao ban chính mình và trong tình yêu. Tình yêu luôn là một chiến thắng, làm sao không nhớ lại những lời của Đức Giáo hoàng Gioan Phaolô II nói với giới trẻ ở bình minh thiên niên kỷ thứ ba này trong lần tụ họp tại Tor Vergata: “Các bạn trẻ thân mến, trước trách nhiệm cao thượng này, các bạn không đơn độc. Cùng với các bạn, có gia đình, có các cộng đoàn, có các linh mục và những nhà giáo dục của các bạn. Và còn có tất cả những ai - và những người này rất đông - một cách kín đáo - không mệt mỏi yêu Chúa Kitô và tin tưởng nơi Người. Trong cuộc chiến chống lại tội lỗi này, các bạn không đơn độc: rất nhiều người chiến đấu như các bạn và chiến thắng nhờ ân sũng của Đức Chúa”.


BTGH chuyển ngữ


Góp nhặt bởi : Hà An - Vài lời tâm sự

Tôi chỉ là một thành viên vô dụng của nhóm Bảo Vệ Sự Sống Thái Hà, muốn đóng góp công sức nhỏ bé của mình chống lại thảm họa phá thai, chống lại nền văn hóa sự chết đồng thời vun đắp cho nền văn minh sự sống và tình yêu thương. Mượn lời của Mẹ Teresa thì những việc tôi làm chỉ như giọt nước giữa đại dương, nhưng nếu không có thì hẳn đại dương sẽ thiếu đi một giọt nước.

0 bình luận:

Đăng nhận xét