Vẻ đẹp


Không gì đẹp bằng người đàn bà bụng chửa dạ mang
từ đây có một trái đất của riêng nàng
được đặt bình yên tại nơi thánh thiện

Tình yêu và trách nhiệm: Việc Ngừa Thai Phá Hủy Tình Yêu Thế Nào?

UBMVGĐ - Trong sách Tình Yêu và Trách Nhiệm, Cha Karol Wojtyla – sau này là ĐTC Gioan Phaolô II - giải thích rằng tại sao việc dùng thuốc ngừa thai không những chỉ là điều vô luân mà còn có thể hủy hoại tình yêu giữa hai vợ chồng trong hôn nhân. Ở đây chúng ta sẽ đề cập đến bốn điểm chính được trích ra từ suy tư của ngài về đề tài này.

 

Chấp Nhận Trách Nhiệm Làm Cha Mẹ

Trước hết, ĐTC nhấn mạnh rằng muốn biến những quan hệ tính dục thành sự kết hợp chân chính giữa hai vợ chồng, chúng phải được đi kèm bằng việc sẵn lòng chấp nhận có thể làm cha mẹ trong tâm trí và ý chí. Chỉ sự kết hợp về tính dục mà thôi chưa tự động đem lại sự kết hợp thật về tình yêu. Một cặp vợ chồng có thể có sự mật thiết về thể lý mà không có sự mật thiết sâu xa cá nhân dựa trên tình yêu, lòng tin tưởng và quyết tâm hoàn toàn hy sinh cho nhau. Một trong những yếu tố chính cần thiết để biến việc kết hợp thể xác giữa hai vợ chồng thành một phương tiện xây dựng một sự kết hợp sâu xa cá nhân của tình yêu là lòng sẵn sàng chấp nhận việc có thể xảy ra qua những hành vi tính dục là “tôi có thể trở thành một người cha” hay “tôi có thể trở thành một người mẹ” (t. 228).

Bằng cách này, chúng ta có thể thấy rằng việc sẵn sàng đón nhận sự sống thực sự gia tăng tình yêu giữa hai vợ chồng, và còn có thể tượng trưng cho những mức độ vị tha cao quý nhất trong hôn nhân. Khi hai vợ chồng cùng nhau chấp nhận việc có thể trở thành cha mẹ, họ không còn chỉ đứng đối diện say mê nhìn nhau và nhìn sự tốt đẹp của liên hệ giữa họ, nhưng họ còn đứng ngang hàng với nhau và cùng nhau nhìn ra ngoài, về phía đời sống mới có thể phát sinh từ tình yêu của họ. Và họ đứng cạnh nhau, không những chỉ dấn thân cho những gì tốt cho nhau, mà còn cùng nhau làm việc để phục vụ đời sống mới trong tương lai. Ở đây chúng ta thấy rằng “sự quan hệ giữa hai vợ chồng không giới hạn nơi họ, nhưng cần phải kéo dài đến con người mới mà sự kết hợp của họ có thể tạo ra” (t. 227).

 
Chối Từ Việc Làm Cha Mẹ cũng là Chối Từ Người Phối Ngẫu của Mình

Thứ đến ĐTC cho chúng ta thấy rằng ngừa thai trong tính dục không những chỉ là chối từ khả năng trở thành cha mẹ, mà còn một cách nào đó là khước từ người bạn trăm năm của mình. Nó làm cho việc kết hợp thể xác trong giao hợp vợ chồng khó được thăng hoa thành một sự kết hợp tình yêu cá nhân (t. 228). Chung quy là bất cứ quan hệ tính dục nào chối từ việc có thể trở thành cha mẹ đều dựa trên những giá trị về phái tính của người kia – những bình diện của người ấy làm cho tôi sung sướng về thể lý hay tình cảm – mà không dựa trên giá trị thật của con người ấy.

Đó là tổn thương lớn nhất mà tính dục ngừa thai gây ra cho hôn nhân. Theo ĐTC thì khi hai vợ chồng cố tình chối từ việc có thể trở thành cha mẹ qua những phương tiện ngừa thai nhân tạo, thì đặc tính căn bản của liên hệ phái tính của họ thay đổi một cách bi thảm. Thay vì là một sự kết hợp trong tình yêu mà trong đó hai người sẵn sàng mở rộng tình yêu của họ bằng việc cùng nhau trở thành cha mẹ, tính dục ngừa thai chuyển hướng những quan hệ vợ chồng về phía trở thành một quan hệ thuần xác thịt giữa hai người, không nhằm một mục đích nào khác hơn là dùng quan hệ này như phương tiện để hưởng lạc thú (t. 228). Thay vì được coi là người hợp tác trong việc tạo dựng qua tình yêu, người phối ngẫu bây giờ chỉ được coi là người hợp tác trong một cảm nghiệm vui thú mà thôi.

Chẳng hạn khi một người đàn ông từ chối việc có thể cùng với vợ trở thành cha mẹ trong một hành vi hôn nhân, thì trọng tâm của kinh nghiệm của ông trong việc giao hoan trở thành đặt trọng tâm vào thú vui xác thịt. Khi người phụ nữ càng ngày càng thuần túy trở thành phương tiện cho thú vui xác dục thay vì là một người hợp tác trong việc trở thành cha mẹ tương lại thì giá trị của một người phụ nữ như một con người và cơ hội để mối liên hệ vợ chồng thêm sâu đậm phải rút lui vào hậu trường. Điều đó chẳng khác người chồng bảo vợ, “Tôi chỉ muốn thú vui giác quan từ những việc này, nhưng tôi không muốn có thể thành cha mẹ với cô."

Khi một người nam và người nữ cùng ăn nằm với một quyết định ngăn ngừa việc có thể trở thành cha hay mẹ, ý định của họ như thế đã không còn nhắm đến con người, mà chỉ nhắm đến thú vui: "con người là người đồng sáng tạo tình yêu" biến mất và và chỉ còn lại “người chung phần trong kinh nghiệm xác thịt.” Không có gì ngược lại việc làm của tình yêu bằng điều này (t 234).

Đó là lý do tại sao sẵn sàng đón nhận sự sống trong những hành động phái tính là “một điều kiện không thể thiếu được của tình yêu" (t 236). Như ĐTC Gioan Phaolô II giải thích, “Khi ý nghĩ là ‘tôi có thể trở thành một người cha’, hay ‘tôi có thể trở thành một người mẹ’ hoàn toàn bị loại ra ngoài trí khôn và ý chí của hai vợ chồng, thì có thể nói cách khách quan rằng liên hệ vợ chồng chẳng còn gì ngoài thú vui xác thịt. Một người trở thành một vật dụng cho người khác dùng” (t 239).


Tiết Dục Định Kỳ

Thứ ba, trong khi cặp vợ chồng không bao giờ được phép loại trừ việc có thể trở thành cha mẹ trong việc làm tình, ĐTC Gioan Phaolô II dạy rằng họ không cần phải “muốn có con trong mọi dịp mà họ có liên hệ vợ chồng” (t. 233). Liên hệ tính dục cần thiết cho sự tốt lành của việc đào sâu liên hệ vợ chồng, chứ không phải chỉ việc sinh con.

Vì thế, như một mục tử khôn ngoan, ĐTC giải thích rằng làm sao mà một cặp vợ chồng phải sẵn sàng đón nhận việc có thể có con trong những liên hệ vợ chồng, nhưng rằng họ không cần phải ăn nằm với ý định đặc biệt là có con mỗi lần. Ngài nói chỉ cần một cặp vợ chồng bảo nhau rằng “trong việc thực thi hành động này chúng ta biết rằng chúng ta có thể trở thành cha mẹ và chúng ta sẵn sàng chấp nhận nếu điều đó xảy ra” (t. 234).

Hơn nữa, các cặp vợ chồng có thể phải đương đầu với một số hoàn cảnh mà trong đó họ muốn tránh có thai. Ở những trường hợp này, họ có thể chọn tiết dục, nhất là trong những thời kỳ mà người phụ nữ có thể có thai. ĐTC gọi thời kỳ này là "tiết dục định kỳ." (Ngày nay, nhiều người Công Giáo thực hành tiết dục định kỳ bằng cách dùng phương pháp Kế Họach Gia Đình Tự Nhiên). Bằng cách tránh hành vi tính dục trong những thời kỳ người phụ nữ có thể thụ thai, một cặp vợ chồng có thể tránh được việc có thai mà không bóp méo ý nghĩa căn bản của liên hệ vợ chồng. Như ĐTC giải thích, "một người nam hay nữ được thúc đẩy bởi một quan tâm thật sự đối với điều tốt đẹp cho gia đình họ và một ý thức trách nhiệm trưởng thành đối với việc sinh sản, nuôi dưỡng và dạy dỗ con cái, có thể giới hạn việc ăn nằm, và kiêng cữ việc ấy trong những thời kỳ mà có thể đưa đến việc thụ thai ngoài ý muốn trong những hoàn cảnh đặc biệt của đời sống hôn nhân và gia đình của họ" (t. 243).

Vẫn Sẵn Sàng Đón Nhận Sự Sống

Cuối cùng, trong khi những cặp vợ chồng Kitô hữu có thể chọn lựa việc tiết dục định kỳ, ĐTC giải thich rằng điều này “chỉ được phép với một số điều kiện” (t. 240).

Thứ nhất, ngài nói rằng điểm quan trọng nhất mà chúng ta phải quan tâm có liên hệ đến thái độ của cặp vợ chồng đối với việc sinh sản con cái. Tiết dục định kỳ có thể giúp điều hòa việc thụ thai, nhưng không được dùng nó để tránh có một gia đình. “Cho nên chúng ta không thể nói đến tiết dục như một nhân đức khi mà các vợ chồng chỉ lợi dụng những thời kỳ có thể thụ thai tự nhiên hoàn toàn để tránh việc làm cha mẹ” (t. 242).

Thứ nhì, ĐTC vạch ra rằng ích lợi của gia đình phải được thận trọng cân nhắc trước khi thực thi việc tiết dục định kỳ. Ngài ghi nhận rằng việc cho con cái có anh chị em có thể góp phần quan trọng vào việc giáo dục đứa trẻ, vì anh chị em tạo thành một cộng đồng tự nhiên giúp cho việc hình thành đứa bé. Thực ra, trong một câu nói thú vị, ĐTC Gioan Phaolô II xem ra muốn ám chỉ rằng số con lý tưởng trong một gia đình phải ít nhất là ba.

Điều rất quan trọng là con người này (đứa bé) không thể sống một mình, mà phải được một cộng đồng tự nhiên bao bọc. Người ta đôi khi bảo chúng ta rằng dạy dỗ vài đứa con chung với nhau thì dễ hơn là chỉ dạy một đứa con, và hai đứa bé không phải là một cộng đoàn mà chỉ là hai đứa bé. Định hướng việc giáo dục con cái là vai trò của cha mẹ, nhưng dưới sự hướng dẫn của cha mẹ, các em phải tự giáo dục mình, vì các em phát triển trong khung cảnh của một cộng đồng trẻ em, một tập thể anh chị em. (t. 242–243).

ĐTC chắc chắn không nói rằng những cha mẹ chỉ có một hoặc hai đứa con không thể nuôi nấng dạy dỗ con cái cách hoàn chỉnh được. Nhưng ngài dường như đề ra rằng có ít ra là ba đứa con tạo thành một môi trường lý tưởng hơn để nuôi nấng và dạy dỗ con cái trong một gia đình. Tại sao ngài lại nói như thế?

Thoáng nhìn, con số có vẻ độc đoán, và ngài không giải thích nhiều về điểm này. Tuy nhiên, theo những gì ngài đã nói ở những nơi khác về tình yêu, ngài có thể một phần nào dựa trên đề tài về “mối dây liên hệ giữa công ích” làm sao để cho tình yêu có nghĩa là liên kết hai người chung quanh một mục đích có ích chung mà họ cùng nhau cố gắng đạt tới [để đưa ra con số này] (x tt. 28–9). Đây rõ ràng là trường hợp trong hôn nhân, ở đó hai vợ chồng được liên kết chung quanh một lợi ích chung là đào sâu sự kết hợp và phục vụ con cái mà họ có thể có. Nhưng nó cũng là trường hợp của chính con cái khi các em có dịp cùng nhau cố gắng hướng về công ích bằng cách phục vụ những anh chị em khác trong gia đình.

Thí dụ, khi vợ tôi và tôi có cháu thứ hai, chúng tôi say mê ngắm nhìn cháu đầu lòng, Mai Liên, lớn lên trong tình yêu đứa em trai nhỏ của cháu là Phúc. Cháu muốn làm cho em cười. Cháu muốn cho em ăn. Cháu muốn phục vụ em. Và khi Phúc lớn hơn, thật là niềm vui cho chúng tôi khi chứng kiến tình yêu của cháu dành cho Mai Liên phát triển và ngắm hai cháu chơi với nhau. Trong khi giống như hầu hết các trẻ em khác, các cháu chắc chắn rằng có nhiều “giây phút không được tốt lắm” trong liên hệ với nhau, tuy vậy, Phúc và Mai Liên lớn lên cách đều đặn trong liên hệ yêu thương cá nhân giữa chị em.

Tuy nhiên, có một điều gì thay đổi quan trọng trong liên hệ của hai cháu khi chúng tôi có cháu thứ ba. Đột nhiên, ngày tháng của Mai Liên và Phúc không còn chỉ là thích thú chơi với nhau. Giờ đây các cháu cùng nhau mê mẩn với em bé mới trong nhà. Như chị và anh, Mai Liên và Phúc bắt đầu không còn chú ý đến mình nữa, nhưng hai cháu cùng nhau chú ý đến em các cháu là Trinh. Các cháu cùng nhau hát cho em. Các cháu cùng nhau cho em ăn. Các cháu cùng nhau làm cho em cười. Mai Liên và Phúc không những học để thành bạn chơi và vui vẻ với nhau mà còn cộng tác trong việc phục vụ đời sống mới ngoài hai cháu – đó là đứa em gái mới của các cháu. Đó có thể là lý do tại sao ĐTC Gioan Phaolô II nói rằng ba đứa con là số con tối thiểu lý tưởng trong một gia đình: Với ít nhất là ba đứacon, hai em có thể cùng làm việc với nhau để phục vụ người khác, và do đó đào sâu hơn những dịp cho các em lớn lên trong tình yêu, tình bằng hữu, và nhân đức như một cộng đoàn.

Tóm lại, ĐTC nhắc nhở chúng ta rằng nếu chúng ta nghĩ đến việc sử dụng phương pháp tiết dục định kỳ, chúng ta phải đắn đo, không nên chỉ lấy việc bảo đảm tài chánh hay sự thoải mái và cách sống mà chúng ta làm tiêu chuẩn khi muốn điều hòa sinh sản. Chúng ta phải thận trọng cân nhắc những ân phúc mà việc có thêm anh chị em mang đến cho hạnh phúc của chính con cái chúng ta, cho đời sống gia đình chúng ta nói riêng, và ngay cả cho toàn thể xã hội nói chung. ĐTC cảnh cáo những cha mẹ quyết định giới hạn số con trong gia đình, mà không đếm xỉa gì đến những lợi ích rộng rãi hơn ngoài chính mình, rằng quyết định của họ có thể sẽ gây ra những thiệt hại trầm trọng cho gia đình và xã hội.

Chính cha mẹ phải thận trọng khi họ giới hạn việc thụ thai, làm sao để đừng phương hại đến gia đình của mình hoặc xã hội nói chung, là những cơ cấu được ích lợi nhờ việc gia đình có một số con hữu hiệu nhất. Một quyết định có càng ít con càng tốt của người chồng hay ngưởi vợ, để làm cho đời sống của mình được dễ dàng, chắc chắn sẽ làm tổn thương về luân lý đến gia đình nói riêng và xã hội nói chung (t. 243).

Một lần nữa, chắc chắn có thể có những hoàn cảnh khi cách điều hòa sinh sản qua việc tiết dục định kỳ là điều cần thiết và là nhiệm vụ của cha mẹ (t. 243). Nhưng trong khi giới hạn số con, vợ chồng không bao giờ được có ý định chối từ chính nhiệm vụ làm cha mẹ. “Tiết dục định kỳ như một phương pháp điểu hoà sinh sản chỉ được phép bao lâu nó không chống lại một khuynh hướng chân thành về việc sinh sản con cái" (t. 243).

Cho nên, trong việc tiết dục định kỳ, các vợ chồng không được tìm cách “tránh có thai bằng mọi giá” (t. 243). Chúng ta cần phải nhớ hai điều. Một đàng, những cặp vợ chồng chỉ có ăn nằm trong thời gian mà ngưởi phụ nữ không thể thụ thai vẫn có thể hành động với lòng sẵn sàng chấp nhận việc có thể trở thành một người cha hay một người mẹ, ngay cả khi họ không muốn có thai và thực hành việc tiết dục để tránh có thai. Đằng khác, thêm vào việc giữ cho những hành vi phái tính của họ cởi mở đối với sự sống, họ phải có “một đầu óc sẵn sàng chấp nhận” đối với việc trở thành cha mẹ trong phạm vi lớn hơn của hôn nhân của họ nói chung, vì anh chị em có lợi cho trẻ em, cho gia đình, và cho toàn thể xã hội (t. 243).


Phaolô Phạm Xuân Khôi


Viết theo How Contraception Destroys Love by Edward P. Sri, từ số báo Jul/Aug 2006 của Lay Witness Magazine.


Theo ubmvgiadinh.org

"... và những điều thiếu sót"

Có một vài người phàn nàn với tôi, rằng các cha DCCT cứ hay nói về chuyện nạo phá thai, chỗ nào cũng nói… Tôi biết có người không thích nghe đề tài này, tôi xem ra tranh luận không đi đến đâu nên im lặng, cứ để họ tự hiểu, cãi làm gì gây... “mất đoàn kết” !

Tôi ước ao họ – những người kêu ca than phiền – có dịp nào đó đi từ Bắc chí Nam thăm các Nghĩa Trang Anh Hài, những nghĩa trang chôn cất các hài nhi bị phá vì cha mẹ các cháu không cho các cháu làm người. Vài năm trở lại đây, nhiều người đau xót trước tệ nạn nạo phá thai, đã lập các Nghĩa Trang Anh Hài, Nghĩa Trang Đồng Nhi rải rác khắp mọi miền đất nước, gần như tỉnh thành nào cũng có.


Nếu Trịnh Công Sơn cất tiếng hát “khi đất nước tôi thanh bình, tôi sẽ đi thăm, đi xem mộ bia đầy như nấm”, thì bây giờ số mộ bia dành cho các cháu chỉ trong một năm thôi cũng bằng số mộ bia dành cho những người nằm xuống trong hai mươi năm “nội chiến từng ngày” mà ông Sơn bảo sẽ đi thăm, “nấm” thai nhi bây giờ nhiều lắm !

Tôi nghĩ nếu họ có một lần nào đó đến thăm “Góc Thương Xót” ở DCCT Sàigòn, nơi chúng tôi “tập kết” các thai nhi mỗi ngày để lo cho các cháu, để các cháu không bị đổ vào hầm cầu, không bị bỏ xuống cống, không bị thiêu chung với “rác y tế”... Họ có thể thăm từng bọc thai nhi bầy nhầy hôi thối, và nếu họ can đảm mở từng bọc ra, sẽ thấy những con người đầy đủ hình dạng nằm co quắp lềnh bềnh trong các dịch nhờn, chắc hẳn họ sẽ nghĩ khác, không trách anh em Linh Mục chúng tôi “nói nhiều” về chuyện phá thai nữa. Thôi ! tại họ không biết, trách nhau làm gì !?!

Hôm qua, thứ sáu 10.4.2009, tôi bị cám dỗ lướt mắt trên tờ báo Phụ Nữ, ngay giữa trang nhất, dĩ nhiên sẽ là tin quan trọng nhất: “Báo động đỏ… !” Bài của tác giả Thiên Nga và Nguyễn Cầm.

Tôi mạn phép chép lại một đoạn:

BÁO ĐỘNG ĐỎ "BỆNH"... NẠO PHÁ THAI

Các bác sĩ sản khoa gọi hiện tượng này là "bệnh", vì số người nạo hút thai hiện nay ở một số bệnh viện đã nhiều hơn số bệnh nhân đến khám vì các bệnh lý sản phụ khoa khác. Tại các bệnh viện lớn như: Từ Dũ, Hùng Vương, Đại Học Y Dược, mỗi tháng, có từ 550 đến 600 ca nạo hút thai. Còn tại các bệnh viện ven Sàigòn như: Thủ Đức, Tân Phú... trung bình, mỗi quý có từ 100 đến 200 ca nạo hút thai.


Có thai thì đi... giải quyết !

Ngày 8 tháng 4, chúng tôi đến bệnh viện quận Thủ Đức, Sàigòn. Rất nhiều nữ công nhân rỉ tai nhau rằng, sau khi vỡ kế hoạch, thì hãy tranh thủ đến bệnh viện này vào giữa ca, “xử lý” xong, lại trở về đi làm tiếp. Ngồi cạnh tôi là M. (21 tuổi, công nhân) hỏi: “Dính bầu hả ? Chuyện nhỏ ! 15 phút là xong, lo gì”. Rồi cô cho biết mình đã ba lần phá thai, vì đây là lần thứ tư. Vì thế, bác sĩ nào “mát tay” cô đều "thuộc". Nữ hộ sinh Lê Thị Ánh Hồng cho biết, đối tượng nạo hút thai ở đây có 75% là công nhân, 5% là học sinh, sinh viên. Những thai trên 13 tuần thường rơi vào trẻ vị thành niên.

Theo chị Hồng, những trường hợp như M. không hề cá biệt, thậm chí có người đi phá thai đến 9, 10 lần. Bác sĩ thấy mặt là phát ngán, nhưng vẫn phải thực hiện thủ thuật, vì nếu không, họ sẽ tìm đến những cơ sở bên ngoài, không an toàn”.

Con số nạo hút thai tác giả nêu lên tôi nghĩ không chính xác, cứ nhìn hình tác giả chụp thì ta có thể đoán được bao nhiêu ca một ngày, hoặc đơn giản thôi, trong hình có tới ba phòng “Thủ Thuật”, mỗi ca “15 phút là xong”, một ngày bao nhiêu giờ làm việc, đừng kể làm thêm giờ hoặc làm cả ngoài giờ (có những ngày Nhóm BVSS Sàigòn của DCCT chúng tôi phải chờ khá muộn mới xin được xác thai đem về, vì hôm đó có quá nhiều ca phá thai) thì ta có ngay số ca trung bình một ngày tại một điểm, thử làm tính xem, có chắc là dưới 3.000 ca một tháng hay không ? (...)

Tôi không nghĩ tác giả đã dẫn chứng sai, tôi nghĩ chính là các trung tâm đã cho tác giả con số… sai, không đúng sự thật ! Chẳng lẽ một bệnh viện lớn như Từ Dũ hoặc Hùng Vương mà mỗi ngày lại chỉ có… 20 ca ? (600 ca một tháng) và bệnh viện Thủ Đức mỗi ngày chỉ có 7 ca ? (200 ca một tháng) Hình chụp cho thấy đông người lắm mà !

Tôi đã chép lại một đoạn, trong đó tác giả kể về bệnh viện Thủ Đức. Thật oái oăm và chua xót, cách nay 31 năm, bệnh viện này chính là Tu Viện của DCCT chúng tôi ! Tu Viện xưa, nay trở thành nơi giết người. Dạo ấy, “người ta” đã đuổi anh em DCCT chúng tôi ra, không một mảnh giấy, không một bản án phán quyết từ bất cứ một loại tòa án nào. Và từ đó, nơi phục vụ cho Sự Sống đã trở thành nơi tiêu diệt Sự Sống, nơi học nói lời Tình Yêu trở thành “đoạn cuối Tình Yêu”, nơi gieo rắc Tình Thương trở thành nơi xót xa cay đắng đến tận cùng.

Tôi muốn giải lý tại sao xã hội chúng ta ngày nay bị phân hóa và tồi tệ thế, cướp bóc giết người hoành hành, lừa đảo gạt gẫm đầy dẫy, quá nhiều hành vi phi văn hóa, xin đơn cử vài chuyện mới đây thôi: Tuyển thủ quốc gia bán độ, đánh nhau, uống rượu nhậu nhẹt say sưa, còn cổ động viên thì ném đầu chó thui xuống sân bóng, bạn trẻ bẻ vặt hoa Anh Đào trong ngày lễ hội, khách tham quan cướp phá hoa ở phố hoa giữa ban ngày, cướp heo đất trong ngày Tết, mọi người phóng uế bừa bãi ngoài đường, tài xế lái xe bất chấp tính mạng người khác...

Khó có thể kể hết được. Tôi muốn nói cái lý do để xã hội tan hoang ra như vậy vì người ta đã đặt sai chuẩn mực đạo đức xã hội và con người, người ta đã thay những nơi, những hoạt động, những chương trình, những kế hoạch của Tình Thương bằng những nơi, những hoạt động, những chương trình những kế hoạch của Sự Chết.

Kêu ca hay trách móc chẳng dẫn đến đâu, chúng ta cùng nhau nhận trách nhiệm và chung tay xây dựng lại, phải mất bao nhiêu năm và bao nhiêu thế hệ để thay đổi một tiêu chuẩn sống ? Nhưng nếu không làm thì ai sẽ làm thay cho chúng ta ? Hội Thánh vẫn luôn có trách nhiệm lên tiếng và rọi sáng con đường của nhân loại (xem Học Thuyết Xã Hội của Giáo Hội Công Giáo).

Mỗi lần cầm trên tay cây nến Phục Sinh là một lần nhắc nhớ ta điều ấy, nếu không là Ánh Sáng, ngọn lửa ấy còn sinh ích gì ? Nếu không là muối mặn nữa, thì đổ ra đường cho người ta giẵm đạp lên chứ để mà làm gì ?!?

Thiếu sót cũng là một tội đấy ! Phiền một nỗi, ngày nào cũng “xét mình”, cũng “kiểm” cái tội này mãi, rồi hóa... nhàm !


Lm. VĨNH SANG, DCCT
sáng thứ bảy Tuần Thánh 2009


Theo trungtammucvudcct.com

Phương pháp thụ tinh trong ống nghiệm

Lm Trần Mạnh Hùng, CSsR

Lời ngỏ

Bài viết này nhằm để trả lời thắc mắc cho chị Nguyễn Thị Hương, đọc gỉả của tờ báo điện tử khoa học@ đời sống – hiện đang cư ngụ và làm việc tại Thành phố Hồ Chí Minh, trong điện thư gởi cho tôi gần đây.

Nội dung của bức thư được ghi như sau:

Một người Công Giáo không thể chấp nhận phá thai

Thánh lễ do Đức Hồng Y Cipriani cử hành kỷ niệm mừng 10 năm thành lập Nhóm Công Bố Phúc Âm (Hérauts de l’Évangile)


Rôma, thứ sáu, ngày 04 tháng 3 năm 2011 (Zenit)

“Một người Công Giáo không thể chấp nhận phá thai, không thể chấp nhận sống chung tự do”, Đức Hồng Y Juan Luis Cipriani, Tổng Giám Mục Lima, nước Pê-ru, đã tái xác quyết như vậy, nhân dịp kỷ niệm 10 năm thành lập Nhóm Công Bố Phúc Âm (Hérauts de l’Évangile) được phê chuẩn, dịp Thánh lễ do ngài chủ tế tại Nhà Thờ Đức Bà Mầu Nhiệm Nhập Thể.

Tiếng thét không lời

Không ai vô tội và vô phương tự vệ cho bằng một trẻ em chưa sinh. Em không thể tự bảo vệ mình hay thậm chí không thể kêu cứu. Khi những dụng cụ giết người chui vào nơi ấm áp của em để hòng giết chết và trục xuất em, em hoảng sợ, đau đớn, em thét lên nhưng không thành tiếng...



"Quý vị biết đấy, ít nhiều chính bản thân tôi đã có kinh nghiệm về vấn đề này. Chính tôi từng là một trong những người sáng lập ra cái Liên Đoàn Quốc Gia Hành Động Cho Quyền Phá Thai năm 1969 và tôi từng là giám đốc Trung tâm phá thai lớn nhất thế giới tây phương trong thời gian khoảng hai năm".

"Kể từ khi ngành khoa học nghiên cứu phôi thai ra đời, chúng ta mới có thể nghiên cứu phôi thai người. Và tất cả các công trình nghiên cứu này đều kết luận không chút nghi ngờ rằng đứa trẻ chưa sinh là một con người không khác gì bất kỳ ai trong chúng ta, và con người ấy là một phần toàn vẹn của cộng đồng nhân loại".

"Ngày nay hủy diệt sự sống con người không phải là phương án giải quyết căn nguyên các vấn đề xã hội. Tôi tin rằng chấp nhận một giải pháp dã man như vậy là thừa nhận sự bần cùng hóa về khoa học và đạo đức. Cách nào đó tôi không thể tin rằng những người Mỹ từng đưa người lên mặt trăng lại không thể nghĩ ra được một giải pháp tốt hơn cái loại giải pháp man rợ này hay sao. Tôi thiết nghĩ tất cả chúng ta giờ đây phải nỗ lực hết sức mình cho một giải pháp tốt hơn, một giải pháp thấm nhuần tình yêu thương và lòng trắc ẩn, và trên hết giải pháp ấy trước tiên phải nhìn nhận và ưu tiên cho sự sống con người. Tất cả chúng ta, hãy vì sự sống nhân loại, ngay giờ đây, hãy dừng ngay tội ác giết người này!"

(bác sĩ Bernard Nathanson)




TIẾNG THÉT KHÔNG LỜI
 
Tôi nghe tiếng thét không lời
Chết lặng... khắp mặt đất...
Chết lặng... muôn triệu thai nhi
Giữa nơi an toàn nhất
Cung lòng mẹ...!
Pháp luật cho phép...
"Lương y, từ mẫu" thông đồng chủ mưu...
Người thân ruồng rẫy... đồng tiền bưng mắt bịt tai
Hỡi người! Còn là người hay quái vật...?
....
Tôi ơi, lẽ nào vô cảm... vô tâm... sợ sệt...?
Không vô cảm... không vô tâm... không sợ chết
Sao thờ ơ im lặng...?!
...
Máu muôn người vô tội
Chảy vọt từ cung lòng mẹ
Tràn lan khắp địa cầu...
Thấu trời cao
Hồn tôi ơi! Này đây Thiên Chúa sẽ nổi giận trừng phạt
Máu người vô tội đã thấu tai Ta.
Con ngươi đâu? Cháu ngươi đâu? Em ngươi đâu? Những con chiên bé nhỏ của Ta đâu? Sao ngươi giết con? Giết cháu? Giết em? Sao ngươi im lặng trước tiếng thét gào chết lặng?
Lên tiếng hay không lên tiếng?
....
Tiếng thét không lời
Chết lặng... khắp mặt đất.
Chừng nào tôi còn câm lặng...
Chừng nào nhân loại còn câm lặng...
Đồng lõa văn minh hủy diệt
Ôi văn minh sự chết!
Ôi sự câm lặng khủng khiếp... Câm lặng của sự chết!
Câm lặng là sống nhưng đã chết!
....
Tiếng thét không lời...!
Chết lặng... khắp mặt đất.
 
Đình Chẩn, Rm, 07.04.2011

Tòa thánh nói với LHQ: đừng sợ tăng dân số

Nêu ra các chính sách kiểm soát dân số thiếu sót

NEW YORK - Quan sát viên thường trực của Tòa Thánh tại Liên Hiệp Quốc, Đức Tổng Giám Mục Francis Chullikatt, thách thức quan điểm sai lầm rằng, khả năng sinh sản của con người và và tăng trưởng dân số là điều cần phải sợ.

Ngài phát biểu ngày 12-4 tại khóa họp lần thứ 44 của Ủy ban Dân số và Phát triển, trong một cuộc họp về "Khả năng sinh sản, sức khỏe sinh sản và phát triển."

Hàn Quốc: Các Giám mục nhấn mạnh “phá thai là giết người”

Hàng giáo sĩ muốn nhắc lại rằng đây là tội ác nghiêm trọng nhất trong các tội ác xâm hại sự sống con người


Seoul – Ngày 14-4, các Giám mục Hàn Quốc ra tuyên bố nhằm điều chỉnh nhận thức của người ta về việc phá thai trong xã hội, nhân ngày Chủ nhật đầu tiên vì Sự Sống.

Cuốn giáo lý Ngày Giới Trẻ Thế Giới gợi ý tán thành ‘biện pháp tránh thai'

Vatican - Một cuốn giáo lý, do Vatican tài trợ dành cho giới trẻ, gợi ý rằng các cặp vợ chồng Kitô giáo "có thể và nên" sử dụng các "phương pháp tránh thai", khi quyết định nên có bao nhiêu con.

 ĐHY Christoph Schonborn và cuốn YouCat

Việc tiết lộ này được đưa ra hai ngày trước khi cuốn "YouCat" được chính thức ra mắt, phát hành đặc biệt cho sự kiện Ngày Giới trẻ Thế giới, sẽ được tổ chức tại Madrid vào tháng Tám tới.

Gia đình và luật tự nhiên


1. Khởi điểm mục vụ
Có một câu chuyện nhỏ tôi muốn kể cho bạn bè và những người thân. Một người bạn tâm sự với tôi một lần nọ. Anh là giám đốc một công ty trách nhiệm hữu hạn đang kinh doanh rất thành công, anh có một gia đình hạnh phúc đã 8 năm nay với một người vợ trẻ đẹp đảm đang và hai “thiên thần” xinh xắn, một trai một gái. Chuyện xảy ra là từ hơn một năm qua, anh quen và yêu một nữ đồng nghiệp đã có gia đình, là giám đốc một công ty đối tác làm ăn. Quan hệ giữa họ bắt đầu từ những cuộc họp hẹn làm ăn dần dần chuyển thành những cuộc hẹn hò tình cảm riêng tư hai người.

Thông điệp Tin Mừng về Sự Sống (p11 và hết)

KẾT LUẬN



102. Vào cuối Thông điệp này, tự nhiên chúng ta hướng nhìn về Chúa Giêsu, về “Hài Nhi đã sinh ra cho chúng ta” (x. Is 9,5) để chiêm ngắm nơi Ngài “Sự Sống đã tỏ hiện” (1Ga 1,7). Trong mầu nhiệm Giáng Sinh này, đã hoàn thành sự gặp gỡ của Thiên Chúa với loài người, và bắt đầu nẻo đường của con Thiên Chúa trên trái đất, nẻo đường đạt tới tột đỉnh trong việc Ngài hiến dâng mạng sống trên thập giá: qua cái chết của mình, Ngài sẽ thắng sự chết và trở nên nguyên lý sự sống mới cho toàn thể nhân loại.


Để tiếp nhận “Sự Sống”, nhân danh mọi người và vì ích lợi của mọi người, có Đức Maria, người mẹ đồng trinh: như vậy Mẹ đã có những liên lạc bản thân rất khắng khít với Tin Mừng về sự sống. Sự ưng thuận của Đức Maria vào dịp Truyền Tin, và việc làm mẹ của ngài là ở tận nguồn mạch của mầu nhiệm sự sống mà Chúa Ki tô đã đến ban cho loài người (x. Ga 10,10). Qua việc Đức Mẹ đón tiếp, qua việc Đức Mẹ lo lắng cho sự sống của Ngôi Lời Nhập Thể, án chết dứt khoát và đời đời đã được miễn trừ cho sự sống của con người.

Vì thế, “như Giáo Hội, mà Mẹ là hình ảnh, Đức Maria là mẹ của tất cả mọi người tái sinh vào sự sống. Đức Mẹ thực là mẹ của Sự Sống làm cho mọi người được sống, và khi sinh ra Sự Sống, Mẹ đã tái sinh cách nào đó tất cả mọi người sẽ sống bằng Sự Sống ấy” (138).

Khi chiêm ngắm việc làm mẹ của Đức maria, Giáo Hội cũng đã được khám phá ra ý nghĩa việc làm mẹ của mình và cung cách mà Giáo Hội được mời gọi để diễn tả việc ấy. đồng thời, kinh nghiệm làm mẹ của Giáo Hội mở ra một viễn ảnh sâu xa nhất để hiểu kinh nghiệm của Đức Maria, như mẫu gương khôn ví của việc tiếp nhận sự sống và của lòng ân cần đối với sự sống.

“Một điềm vĩ đại xuất hiện trên trời: một Người Nữ mặc áo mặt trời” (Kh 12,1)
Việc làm mẹ của Đức Maria và của Giáo Hội.

103.
Tương quan giữa mầu nhiệm Giáo Hội và mầu nhiệm Đức Maria, rõ ràng xuất hiện trong “điềm vĩ đại” được diễn tả trong sách Khải Huyền: “Một điềm vĩ đại hiện ra trên trời: một Người Nữ mặc áo mặt trời, chân đứng trên mặt trăng, đầu đội triều thiên mười hai ngôi sao” (Kh 12,1). Giáo Hội nhìn ra trong điều này một hình ảnh của mầu nhiệm riêng mình: được dìm ngập trong lịch sử, Giáo Hội là “mầm giống và khởi đầu” Nước Thiên Chúa (139). Giáo Hội trông thấy sự thực hiện đầy đủ và kiểu mẫu mầu nhiệm này nơi Đức Maria. Chính Mẹ là Người Nữ hiển vinh, nơi Mẹ ý định của Thiên Chúa đã được chu toàn với sự hoàn hảo lớn nhất.

“Người Nữ mặc áo mặt trời đang mang thai” như sách Khải Huyền nhấn mạnh (Kh 12,2). Giáo Hội hoàn toàn ý thức mình đang mang Chúa Cứu Thế, là Chúa Kitô và mình được gọi trao Chúa Kitô cho thế giới, để tái sinh loài người vào chính sự sống của Thiên Chúa. Nhưng Giáo Hội không thể quên rằng sứ mệnh của mình đã trở nên có thể thi hành được nhờ việc Đức Maria làm mẹ, Mẹ đã cưu mang và sinh ra cho thế giới Đấng là “Thiên Chúa sinh bởi Thiên Chúa”, “Thiên Chúa thật sinh bởi Thiên Chúa thật”, Đức Maria đích thật là Mẹ của Thiên Chúa, là Theothokos: trong sứ mệnh làm mẹ của Đức maria, ơn gọi làm mẹ mà Thiên Chúa ghi khắc trong từng người nữ đã được cực kỳ nâng cao. Như thế, Đức Maria xuất hiện như mẫu gương cho Giáo Hội, được gọi làm “Eva mới”, mẹ của các tín hữu, mẹ của “những người sống” (x. St 3,20).

Việc làm mẹ thiêng liêng của Giáo Hội – Giáo Hội cũng ý thức rõ điều này – chỉ được thực hiện trong những đau đớn “chuyển dạ sinh con” (Kh 12,2), tức là sự căng thẳng liên miên với những thế lực của sự dữ hằng tiếp xúc xâm nhập vào thế giới và ghi dấu vào trái tim con người, trong khi chống cự lại Chúa Kitô: “Điều ở nơi Ngài là sự sống, và sự sống là ánh sáng soi cho nhân loại, và ánh sáng chiếu rạng trong tối tăm, và tối tăm đã không năm được ánh sáng” (Ga 1,4-5).

Như Giáo Hội, Đức Maria đã phải sống tình làm mẹ dưới dấu chỉ của đau đớn: “Hài Nhi này… phải là dấu chỉ của vấp phạm và chống đối, còn Bà, một mũi gương sẽ đâm thâu vào lòng Bà, hầu bộc lộ tâm tư nhiều cõi lòng” (Lc 2,34-35). Trong những lời Simêon nói với Đức Maria ngay từ bình minh cuộc đời Chúa Cứu Thế, ta thấy được trình bày cách tổng hợp sự từ chối Chúa Giêsu và Đức Maria cùng với Ngài, sự từ chối lên tới tột đỉnh trên núi Canvê. “Đứng gần thập giá Chúa Giêsu” (Ga 9,25), Đức Maria tham gia vào việc tự hiến của Chúa Con: Đức Mẹ dâng Chúa Giêsu lên Chúa Cha, trao hiến Người đi, và dứt khoát sinh Người ra cho ta. Tiếng “xin vâng” ngày Truyền Tin được trọn vẹn chín muối trong ngày của Thập giá, khi đến giờ để Đức Maria đón nhận và sinh hạ, như con mình, tất cả mọi người đã trở nên môn đệ và mang nơi mình tình yêu cứu thế của Chúa Con: “Chúa Giêsu thấy Mẹ và gần Mẹ có môn đệ yêu quý, Ngài thưa với mẹ: “ Hỡi bà, này là con của Bà” (Ga 19,26).


“Dừng lại trước người nữ, con rồng rình nuốt người con của bà khi sinh ra” (Kh 12,4)
Sự sống bị đe doạ bởi thế lực sự ác.


104. Trong sách Khải Huyền, “dấu chỉ vĩ đại” về “người nữ” (Kh 12,1) kèm theo ngay “một dấu chỉ khác xuất hiện trên trời: một con rồng màu đỏ lửa to lớn” (Kh 12,3), ám chỉ satan, một kẻ mang sức mạnh ám hại và đồng thời là một sức mạnh của sự dữ đang hoạt động trong lịch sử và ngăn cản sứ mệnh của Giáo hội.

Ở đây nữa, Đức Maria vẫn còn soi sáng cho cộng đoàn tín hữu: sự thù địch của các thế lực sự dữ, quả là một sự chống đối ngấm ngầm, trước khi đụng tới môn đệ của Chúa Giêsu đã quay qua chống lại Mẹ Chúa. Để cứu lấy sự sống của Con Mình trước những kẻ sợ Chúa như một mối ngăm đe nguy hiểm, Đức Maria đã phải trốn sang Ai Cập cùng với Thánh Giuse và Hài nhi Giêsu (x. Mt 2,13-15).

Như vậy, Đức Maria giúp Giáo Hội ý thức rằng sự sống luôn luôn ở giữa một cuộc chiến đấu rất lớn giữa sự thiện và sự ác, giữa ánh sáng và bóng tối. Con rồng muốn nuốt chửng “hài nhi vừa sinh” (Kh 12,4) là hình ảnh Chúa Kitô , mà Đức Maria sinh ra trong “thời viên mãn” (Gl 4,4) và Giáo Hội hằng phải trao ban cho con người ở những thời kỳ khác nhau của lịch sử. Nhưng hài nhi này cũng là như hình ảnh của từng người, từng em bé, đặc biệt của từng tạo vật yếu ớt và bị đe doạ, bởi vì – như Công Đồng nhắc nhở chúng ta – “qua Mầu nhiệm Nhập Thể, con Thiên Chúa đã kết hiệp một cách nào đó với mọi người” (140). Chính trong “xác thể” của từng người mà Chúa Kitô tiếp tục tự mặc khải và đi vào mối hiệp thông với chúng ta, đến mức độ mà vứt bỏ sự sống của con người dưới hình thức khác nhau cũng chính là vứt bỏ Chúa Kitô . Đó là chân lý cảm kích và đồng thời thúc bách mà Chúa Kitô tỏ lộ cho chúng ta và Giáo Hội không hề mệt mỏi nói lại: “Ai đón tiếp một bé thơ như em này vì danh Thầy, là đón tiếp Thầy” (Mt 18,5); “Thật, Ta bảo thật các con, những gì các con đã làm cho một người trong các anh em hèn mọn nhất của Ta, là các con đã làm cho chính mình Ta” (Mt 25,40).


“Chết chóc không còn nữa” (Kh 21,4)

Ánh rạng ngời của sự Phục Sinh.


105. Việc loan báo của sứ thần cho Đức Maria nằm trong những lời trấn an này: “Xin đừng sợ, thưa Đức Maria”, và “Không có gì là không thể được đối với Thiên Chúa” (Lc 1,30-37). Thật vậy, trọn cuộc đời của Đức Trinh Mẫu Maria được bao bọc bằng niềm tin chắc chắn rằng Thiên Chúa ở gần bên Ngài và đi cùng với Ngài bằng việc quan phòng nhân hậu với Chúa. Với Giáo Hội cũng thế, giáo Hội tìm được nơi “ẩn náu” (Kh 12,6) trong sa mạc, nơi thử thách, nhưng cũng là nơi biểu lộ tình yêu thương của Thiên Chúa đối với dân Ngài (x. Osê 2,16). Đức maria là lời sống động của niềm an ủi cho Giáo Hội trong cuộc chiến chống lại sự chết. Khi Mẹ tỏ ra cho ta thấy Con của Mẹ, Mẹ bảo đảm với ta rằng nơi Ngài các thế lực sự chết đã thua bại: “Tử sinh song đấu lạ kỳ, Chủ Tể sự sống đã chết; nay đang sống, Ngài hiển trị” (141).

Chiên Con bị sát tế đang sống trong khi mang dấu tích cuộc Khổ nạn trong ánh huy hoàng Phục sinh. Chỉ mình Ngài chủ trì mọi biến cố của lịch sử. Ngài đập tan “các ấn tín” của nó (Kh 5,1-10) và, trong thời gian và bên kia thời gian, Ngài công bố quyền lực sự sống trên sự chết. Trong “thành Giêrusalem mới” tức là trong thế giới mới mà lịch sử con người đang vươn tới, “chết chóc sẽ không còn nữa; khóc than, rên xiết và khổ đau sẽ không còn nữa, vì thế giớ cũ đã qua đi” (Kh 21,4).

Và trong khi chúng ta là dân của Thiên Chúa đang lữ hành, dân của sự sống và dân vì sự sống, trong niềm cậy trông, chúng ta đang tiến bước về “một trời mới và một đất mới” (kh 21,1), chúng ta hướng nhìn về Đấng, đối với ta, là “dấu chỉ của lòng cậy trông vững chắc và của niềm an ủi” (142).

Lạy Mẹ Maria,
Bình Minh của thế giới mới,
Là mẹ của chúng sinh,
Chúng con xin trao phó cho Mẹ
Vụ án về sự sống.
Lạy mẹ, xin nhìn đến
Vô số những trẻ thơ
Bị ngăn cản không được sinh ra đời,
Những người nghèo
Mà cuộc sống trở nên khó khăn,
Những người bị sát hại
Vì bạo lực bất nhân,
Những người già, người bệnh bị giết
Do sự lãnh đạm thờ ơ
Hay do lòng thương giả dối.
Xin Mẹ hãy làm cho
Những kẻ tin vào Con của Mẹ
Biết loan báo cho người thời nay
Tin Mừng về sự sống
Với lòng kiên quyết và tình yêu thương
Xin Mẹ cầu Chúa ban cho họ
Được ơn đón nhận Tin mừng về sự sống
Như một hồng ân luôn luôn mới mẻ,
Được niềm vui tôn dương Tin Mừng ấy
Với lòng tri ân trong cả cuộc đời,
Và được can đảm làm chứng
cho Tin Mừng ấy
với sự kiên trì chủ động,
để cùng những người thiện chí
xây dựng nền văn minh của chân lý và tình yêu
hầu ca ngợi và tôn vinh Thiên Chúa,
Đấng Tạo Thành hằng yêu thương sự sống.

Ban hành tại Rôma, gần Đền thờ Thánh Phêrô
Ngày lễ Truyền Tin 25.3.1995
Năm thứ 17 triều Giáo hoàng của tôi

GIOAN PHAOLÔ II



Xem tiếp bản tiếng Anh, Pháp, Ý.
----------
Chú thích:
1 Quả thực diễn ngữ "Tin Mừng về sự sống" không có trong thánh Kinh. Tuy nhiên diễn ngữ ấy am hợp với một phương diện cốt yếu của sứ điệp Thánh Kinh.
2 Hiến chế Mục vụ về Giáo Hội trong thế giới ngày nay, Vui mừng và Hy vọng, số 22.
3 Xem Thông điệp Đấng Cứu Chuộc con ngườicủa Đức Gioan Phaolô II (4.3.1979), số 10.
4 Xem Thông điệp trên, số 14.
5 Hiến chế Mục vụ về Giáo Hội trong thế giới ngày nay, Vui mừng và Hy vọng, số 27.
6 Xem Thư gởi hàng Giám mục về "Tin mừng về sự sống" (19.5.1991).
7 Cũng trong thư trên.
8 Thư gởi các Gia đình - Gratissimam sane (2.2.1994) số 4.
9 Đức Gioan Phaolô II, Thông điệp Centesimus Annus – Năm thứ một trăm (1.5.1991), số 39.
10 Số 2259.
11 Xem Bàn về Noê của Thánh Ambrôsiô, 26,94-96.
12 x. GLHTCG, số. 1867 và 2268.
13 Bàn về Cain et Abel, II, 10, 38.
14 Xem Huấn thị Ơn ban sự sống (Donum Vitae) (22.2.1987) của Thánh Bộ Giáo lý Đức tin.
15 Diễn từ trong dịp canh thức cầu nguyện cho ngày Quốc tế Giới trẻ lần VIII tại Denver (16,8,1993)
16 Diễn từ của Đức Gioan Phaolô II trước các tham dự viên cuộc tham luận về “Quyền sống và Châu âu” (18.12.1987).
17 Hiến chế Vui mừng và Hy vọng, số 36.
18 x. như trên, số 16.
19 x. Luân lý về Gióp, 13, 23 của thánh Gregorio Cả.
20 Thông điệp Redemptor Hominis (Đấng Cứu Chuộc con người) (4.3.1979), Gioan Phaolô II, số 10.
21 Hiến chế Gaudium et Spes - Vui mừng và Hy vọng, số 50.
22 Hiến chế Tín lý về Mạc khải Dei Verbum, số 4.
23 "Gloria Dei vivens homo": Adversus Haereses - Chống lạc giáo, IV, 20, 7.
24 Hiến chế Gaudium et Spes - Vui mừng và Hy vọng, số 12.
25 Confessions (Tự thuật), I, 1.
26 Exameron, VI, 75-76.
27 "Vita autem hominis visio Dei": Adversus Haereses - Chống lạc giáo, IV, 20, 7.
28 x. Đức Gioan Phaolô II, Thông điệp Centesimus Annus – Năm thứ một trăm (1.5.1991), số 38.
29 Đức Gioan Phaolô II, Thông điệp Sollicitudo Rei Socialis – Quan tâm đến việc xã hội (30.12.1987), số 34.
30 Hiến chế Gaudium et Spes - Vui mừng và Hy vọng, số 50.
31 Thư gửi các Gia đình Gratissimam sane (2.2.1994), số 9; x. Pio XII, Tông huấn Humani Generis – Nhân loại (12.8.1950).
32 "Animas enim a Deo immediate creari catholica fides nos retinere iubet": Pio XII, Tông huấn Humani Generis – Nhân loại (12.8.1950).
33 Hiến chế Gaudium et Spes - Vui mừng và Hy vọng, số 50.; x. ĐGH Gioan Phaolô II, Tông huấn Về Gia đình Familiaris Consortio(22.11.1981), số 28.
34 Homilies – Các bài giảng, II, 1.
35 Xem, chẳng hạn, các Thánh Vịnh 22/21,10-11; 71/70,6; 139/138,13-14.
36 Expositio Evangelii secundum Lucam – Trình bày Phúc âm theo Thánh Luca, II, 22-23.
37 Thánh Ignatio Antiokia, Thư gửi tín hữu Ephêsô, 7, 2: Patres Apostolici, ed. F.X. Funk, II, 82.
38 De Hominis Opificio, số 4.
39 x. Thánh Gioan Đamaxen, De Fide Orthodoxa, 2, 12, được Thánh Tôma Aquinô trích dẫn, Summa Theologiae – Tổng luận thần học, I-II, Lời nói đầu.
40 Đức Phaolô VI, Thông điệp Humanae Vitae- Sự sống con người (25.7.1968), số 13.
41 Thánh Bộ Giáo lý Đức tin, Huấn thị Donum Vitae- Ơn ban sự sống (22.2.1987), Nhập đề, số 5; x. GLHTCG, số 2258.
42 Sách Didache, I, 1; II, 1-2; V, 1 và 3: Patres Apostolici, ed. F.X. Funk, I, 2-3, 6-9, 14-17; x. Thư của Pseudo-Barnabas, XIX, 5.
43 x. GLHTCG, các số 2263-2269; cũng xem sách Giáo lý của Công đồng Trentô III, §§ 327-332.
44 Sách GLHTCG, số 2265.
45 x. Thánh Tôma Aquinô, Summa Theologiae – Tổng luận thần học, II-II, q. 64, a. 7; Thánh Anphonsô Liguori, Theologia Moralis – Thần học luân lý, l. III, tr. 4, c. 1, dub.3.
46 Sách GLHTCG, số 2266.
47 x. như trên.
48 Số 2267.
49 Công đồng Vatican II, Hiến chế tín lý về Giáo Hội Lumen Gentium –Ánh sáng muôn dân, số 12.
50 Hiến chế Gaudium et Spes - Vui mừng và Hy vọng, số 27.
51 Hiến chế tín lý về Giáo Hội Lumen Gentium –Ánh sáng muôn dân, số 25.
52 Thánh Bộ Giáo lý Đức tin, Tuyên ngôn về việc làm chết êm dịu Iura et Bona (5.5.1980), II.
53 Đức Gioan Phaolô II, Thông điệp Veritatis Splendor-Ánh rạng ngời của chân lý (6.8.1993), số 96.
54 Hiến chế mục vụ Gaudium et Spes - Vui mừng và Hy vọng, số 51, "Abortus necnon infanticidium nefanda sunt crimina".
55 x. ĐGH Gioan Phaolô II, Tông thư Mulieris Dignitatem-Phẩm giá phụ nữ (15.8.1988), số 14.
56 Sđd. Số 21.
57 Thánh Bộ Giáo lý Đức tin, Tuyên ngôn về việc cố ý phá thai (18.11.1974), các số 12-13.
58 Thánh Bộ Giáo lý Đức tin, Huấn thị Donum Vitae- Ơn ban sự sống (22.2.1987), I, số 1.
59 Sđd như trên.
60 Ngôn sứ Giêrêmia nói: "Chúa nói với tôi bằng những lời này: 'Trước khi tạo nên ngươi trong dạ mẹ, Ta đã biết ngươi, ngay cả trước khi ngươi lọt lòng, Ta đã thánh hiến ngươi; Ta đã đặt ngươi làm ngôn sứ cho các dân tộc" (1,4-5). Về phần mình, Thánh vịnh gia thưa với Chúa những lời này: "Ngay từ lòng mẹ con đã tựa nương vào Chúa, ngay khi con ở trong dạ mẫu thân, Chúa đã là gia nghiệp của con" (Ps 71/70,6; x. Is 46,3; G 10,8-12; Tv 22/21,10-11). Trong cuộc gặp gỡ kỳ diệu giữa hai người mẹ: bà Êlizabeth và Đức Maria, và giữa hai người con: Gioan Tẩy giả và Chúa Giêsu, con náu ẩn trong lòng mẹ (x. Lc 1,39-45) – tác giả Luca cũng nhấn mạnh rằng con trẻ đón nhận Con Trẻ đến và phấn khởi vui mừng.
61 x. Tuyên ngôn về việc cố ý phá thai (18.11.1974), số 7.
62 "Ngươi không được giết con trẻ bằng việc phá thai và không được làm chết nó sau khi nó sinh ra": V, 2: Patres Apostolici, ed. F.X. Funk, I, 17.
63 Lời thỉnh cầu cho các Kitô hữu, số 35.
64 Apologeticum – Minh giáo, IX, 8.
65 x. Thông điệp Casti Connubii-Khiết tịnh hôn nhân (31.12.1930), II.
66 Diễn văn trước Liên hiệp Y Sinh học "San Luca" (12.11.1944): Discorsi e Radiomessaggi, VI; x. Diễn văn trước Liên hiệp Công giáo Italia các bà hộ sinh (29.10.1951), số 2.
67 Thông điệp Mater et Magistra-Mẹ và Thầy (15.5.1961), số 3.
68 Hiến chế mục vụ Gaudium et Spes - Vui mừng và Hy vọng, số 51.
69 Xem điều 2350, § 1.
70 Bộ Giáo luật, điều 1398; x. Bộ luật các Giáo hội Đông phương, điều 1450, § 2.

71 x. sđd., điều 1329; cũng xem Bộ luật các Giáo hội Đông phương, điều 1417.
72 x. Diễn văn trước các luật gia Công giáo Italia (9.12.1972); Thông điệp Humanae Vitae-Sự sống con người (25.7.1968), số 14.
73 Hiến chế tín lý về Giáo Hội Lumen Gentium –Ánh sáng muôn dân, số 25.
74 Thánh Bộ Giáo lý Đức tin, Huấn thị Donum Vitae- Ơn ban sự sống (22.2.1987), I, số 3.
75 Hiến chương về quyền của Gia đình (22.10.1983), article 4b.
76 Thánh Bộ Giáo lý Đức tin, Tuyên ngôn về việc làm chết êm dịu Iura et Bona (5.5.1980), II.
77 Sđd., IV.
78 x. văn kiện trên.
79 Đức Piô XII, Diễn văn trước một nhóm quốc tế các thầy thuốc (24.2.1957), III; x. Thánh Bộ Giáo lý Đức tin, Tuyên ngôn về việc làm chết êm dịu Iura et Bona (5.5.1980), III.
80 Đức Piô XII, Diễn văn trước một nhóm quốc tế các thầy thuốc (24.2.1957), III.
81 Piô XII, Diễn văn trước một nhóm quốc tế các thầy thuốc (24.2.1957), như trên; Thánh Bộ Giáo lý, Decretum de directa insontium occisione (2.12.1940); Đức Phaolô VI, Sứ điệp cho Truyền hình Pháp: "Mọi sự sống đều thánh thiêng" (27.1,1971); Diễn văn tại trường quốc tế Surgeons (1.6.1972); Hiến chế mục vụ Gaudium et Spes - Vui mừng và Hy vọng, số 27.
82 x. Hiến chế tín lý về Giáo Hội Lumen Gentium –Ánh sáng muôn dân, số 25.
83 x. Thánh Augustinô, De Civitate Dei-Thành trì Thiên Chúa I, 20; Thánh Tôma Aquinô, Summa Theologiae-Tổng luận thần học, II-II, q. 6, a. 5.
84 Thánh Bộ Giáo lý Đức tin, Tuyên ngôn về việc làm chết êm dịu Iura et Bona (5.5.1980), I; GLHTCG, các số 2281-2283.
85 Thư 204, 5.
86 Hiến chế mục vụ Gaudium et Spes - Vui mừng và Hy vọng, số 18.
87 x. Đức Gioan Phaolô II, Tông thư Salvifici Doloris-Đau khổ cứu độ (11.2.1984), số 14-24.
88 x. Đức Gioan Phaolô II, Thông điệp Centesimus Annus – Năm thứ một trăm (1.5.1991), số 46; Đức Piô XII, Sứ điệp truyền thanh Giáng Sinh (24.12.1944).
89 Cf. Đức Gioan Phaolô II, Thông điệp Veritatis Splendor-Ánh rạng ngời của chân lý (6.8.1993), số 97 và 99.
90 Thánh Bộ Giáo lý Đức tin, Huấn thị Donum Vitae- Ơn ban sự sống (22.2.1987), III.
91 x. Công đồng Vatican II, Tuyên ngôn về Tự do tôn giáo Dignitatis Humanae- Phẩm giá con người, số 7.
92 x. Thánh Tôma Aquinô, Summa Theologiae-Tổng luận thần học I-II, q. 96, a. 2.
93 x. Công đồng Vatican II, Tuyên ngôn về Tự do tôn giáo Dignitatis Humanae- Phẩm giá con người, số 7.
94 Thông điệp Pacem in Terris-Hoà bình trên trái đất (11.4.1963), II. Trưng dẫn trong bản văn mượn ở Đức Piô XII, Sứ điệp truyền thanh Lễ Hiện Xuống 1941 (1.6.1941). Về đề tài này, Thông điệp quy chiếu ở chú thích về Đức Piô XII, Thông điệp Mit brennender Sorge(14.3.1937); Thông điệp Divini Redemptoris-Thiên Chúa Cứu Chuộc (19.3.1937), III; Đức Piô XII, Sứ điệp truyền thanh dịp Giáng Sinh (24.12.1942).
95 Thông điệp Pacem in Terris-Hoà bình trên trái đất (11.4.1963), II, như trên.
96 Summa Theologiae-Tổng luận thần học I-II, q. 93, a. 3, ad 2um.
97 Như trên, I-II, q. 95, a. 2. Thánh Tôma Aquinô trưng dẫn Thánh Augustinô: "Non videtur esse lex, quae iusta non fuerit" (Luật mà không công bằng thì không phải luật), De Libero Arbitrio, I, 5, 11.
98 Thánh Bộ Giáo lý Đức tin, Tuyên ngôn về việc cố ý phá thai (18.11.1974), số 22.
99 x. Sách GLHTCG, các số 1753-1755; Đức Gioan Phaolô II, Thông điệp Veritatis Splendor-Ánh rạng ngời của chân lý (6.8.1993), các số 81-82.
100 Khảo luận về Tin Mừng Gioan, 41, 10; x. Đức Gioan Phaolô II, Thông điệp Veritatis Splendor-Ánh rạng ngời của chân lý (6.8.1993), số 13.
101 Tông huấn Evangelii Nuntiandi-Loan báo Tin Mừng (8.12.1975), số 14.
102 x. Sách Lễ Rôma, lời kinh của chủ tế trước khi chịu lễ.
103 x. Thánh Irênê: "Omnem novitatem attulit, semetipsum afferens, qui fuerat annuntiatus", Adversus Haereses-Chống lạc giáo: IV, 34, 1.
104 x. Thánh Tôma Aquinô, "Peccator inveterascit, recedens a novitate Christi", In Psalmos Davidis Lectura: 6,5.
105 De Beatitudinibus-Bài giảng về các mối phúc, VII.
106 x. Đức Gioan Phaolô II, Thông điệp Veritatis Splendor-Ánh rạng ngời của chân lý (6.8.1993), số 116.
107 x. Đức Gioan Phaolô II, Thông điệp Centesimus Annus – Năm thứ một trăm (1.5.1991), số 37.
108 x. Sứ điệp Giáng Sinh 1967: AAS 60 (1968), 40.
109 Pseudo- Dionysius the Areopagite, On the Divine Names-Về các tên thần linh, 6, 1-3.
110 Đức Phaolô VI, Pensiero alla Morte-Tư tưởng về sự chết, Istituto Paolo VI, Brescia 1988, 24.
111 Đức Gioan Phaolô II, Bài giảng lễ phong Chân phước Isidore Bakanja, Elisabetta Canori Mora và Gianna Beretta Molla (24.4.1994):L'Osservatore Romano, 25-26 April 1994, 5.
112 Như trên.
113 In Matthaeum, Hom. (Bài giảng về Tin Mừng Matthêu) I, 3
114 Sách GLHTCG, số 2372.
115 Đức Gioan Phaolô II, Diễn văn tại Đại hội Giám mục Mỹ Latinh ở San Domingo (12.10.1992), số 15.
116 x. Sắc lệnh về Đại kết Unitatis Redintegratio, số 12; Hiến chế mục vụ Gaudium et Spes - Vui mừng và Hy vọng, số 90.
117 Đức Gioan Phaolô, Tông huấn về Gia đình Familiaris Consortio (22.11.1981), số 17.
118 x. Hiến chế mục vụ Gaudium et Spes - Vui mừng và Hy vọng, số 50.
119 Đức Gioan Phaolô II, Thông điệp Centesimus Annus – Năm thứ một trăm (1.5.1991), số 39.
120 Đức Gioan Phaolô II, Diễn văn trước các tham dự viên Hội nghị Giám mục Âu châu về đề tài "Những thái độ đương thời trước việc sinh ra đời và trước cái chết: một thách đố cho việc rao giảng Tin Mừng" (17.10.1989), số 5. Con cái theo truyền thống Kinh Thánh được trình bày cách rõ ràng như là hồng ân của Thiên chúa (x. Tv 127:3) và như là dấu chỉ phúc lành của Ngài xuống trên những ai đi trong đường lối của Ngài (x. Tv 128:3-4).
121 Đức Gioan Phaolô II, Thông điệp Quan tâm đến vấn đề xã hội - Sollicitudo Rei Socialis (30.12.1987), số 38.
122 Đức Gioan Phaolô II, Tông huấn về Gia đình Familiaris Consortio (22.11.1981), số 86.
123 Đức Phaolô VI, Tông huấn Loan báo Tin Mừng - Evangelii Nuntiandi (8.12.1975), số 18.
124 Như trên, số 20.
125 x. Hiến chế mục vụ Gaudium et Spes - Vui mừng và Hy vọng, số 24.
126 Cf. Đức Gioan Phaolô II, Thông điệp Centesimus Annus – Năm thứ một trăm (1.5.1991), số 17; Thông điệp Ánh rạng ngời của chân lý - Veritatis Splendor (6.8.1993), số 95-101.
127 Đức Gioan Phaolô II, Thông điệp Centesimus Annus – Năm thứ một trăm (1.5.1991), số 24.
128 Đức Gioan Phaolô II, Tông huấn về Gia đình Familiaris Consortio (22.11.1981), số 37.
129 Thư thiết lập ngày Quốc tế Bệnh Nhân (13.5.1992), số 2.
130 x. Hiến chế mục vụ Gaudium et Spes - Vui mừng và Hy vọng, số 35; Đức Phaolô VI, Thông điệp Phát triển các dân tộc - Populorum Progressio (26.3.1967), số 15.
131 x. Đức Gioan Phaolô II, Thư gửi các gia đình Gratissimam sane (2.2.1994), số 13.
132 Đức Gioan Phaolô II, Tự sắc Mầu nhiệm Sự Sống - Vitae Mysterium (11.2.1994), số 4.
133 Sứ điệp kết thúc Công đồng (8.12.1965): Gửi chị em phụ nữ.
134 Đức Gioan Phaolô II, Tông thư Phẩm giá phụ nữ - Mulieris Dignitatem (15.8.1988), số 18.
135 x. Đức Gioan Phaolô II, Thư gửi các gia đình Gratissimam sane (2.2.1994), số 5.
136 Đức Gioan Phaolô II, Diễn văn trước các tham dự viên một cuộc Hội thảo về “Quyền sống và Châu Âu” (18.12.1987).
137 Sứ điệp Ngày Thế Giới Hoà Bình 1977.
138 Chân phước Guerric of Igny, Bài giảng lễ Mông Triệu I, 2.
139 Hiến chế tín lý về Giáo Hội Lumen Gentium –Ánh sáng muôn dân, số 5.
140 Hiến chế mục vụ Gaudium et Spes - Vui mừng và Hy vọng, số 22.
141 Sách lễ Rôma, Ca tiếp liên Chúa nhật Phục Sinh.
142 Hiến chế tín lý về Giáo Hội Lumen Gentium –Ánh sáng muôn dân, số 68.


Theo gpnt.net/diendan

Ấn Độ: Phát hiện 15 bào thai bé gái ở bãi rác

15 bào thai giới tính nữ đã được tìm thấy trong những chiếc lọ trên một bãi rác thuộc bang Bihar, cảnh sát Ấn Độ cho biết hôm 4/4.

Sự việc được phát hiện vài ngày sau khi số liệu điều tra dân số cho thấy tỷ lệ bé gái so với bé trai ở nước này đang ở mức thấp nhất kể từ năm 1947.

Nỗi ám ảnh của nữ sinh đi phá thai

Lối sống phóng túng, hưởng thụ nhất thời của nhiều thiếu nữ ngày nay đã để lại không ít hậu quả cho bản thân và gia đình. Một lần đi 'giải quyết hậu quả', họ không chỉ đớn đau về thể xác, mà còn bị ám ảnh kinh hoàng như một cơn ác mộng trong suốt cuộc đời... Bài viết kể về 3 câu chuyện của 3 nữ sinh sẽ là bài học quý giá cho nhiều bạn trẻ ngày nay.

Cơn ác mộng kinh hoàng…

Có cha mẹ làm nghề kinh doanh, bận rộn tối ngày nên N.Tâm, học sinh một trường THPT tại Hà Nội) thường xuyên phải ở nhà một mình. Dù được đáp ứng đầy đủ về vật chất, muốn gì là được nấy nhưng Tâm luôn sống trong cảm giác thèm khát một bữa cơm gia đình ấm cúng.

Cha mẹ không bao giờ có thời gian ngồi lắng nghe em tâm sự, nên mỗi khi vui, buồn, Tâm thường lên mạng kết bạn để giải khuây. Tình cờ Tâm quen biết và trở nên thân thiết với Dũng, một người bạn “cùng cảnh ngộ”.

Dũng hơn Tâm 5 tuổi và là một “đại gia” từng trải trong chuyện tình trường. Bị những lời mật ngọt dụ dỗ, lại đang thiếu thốn tình cảm, Tâm nhanh chóng ngã vòng tay Dũng.

Các phòng phá thai xuất hiện ngày một nhiều


Mới quen biết được vài tuần, Dũng đã ngỏ ý đưa Tâm vào…nhà nghỉ, bị cơn say tình làm cho “choáng váng”, Tâm sẵn sàng trao cho Dũng đời con gái không chút đắn đo. Vậy là cứ một tuần vài lần, hết giờ tan học, còn mặc nguyên đồng phục, Tâm lại được Dũng đón đi chơi, xem phim và điểm đến cuối cùng luôn luôn là…nhà nghỉ.

Rồi điều gì đến cũng phải đến, một thời gian sau Tâm phát hiện mình có thai. Những tưởng anh chàng người yêu sẽ bên cạnh mình trong khoảng thời gian khó khăn này, nhưng nào ngờ khi nghe tin “dữ” thì chàng khăng khăng đòi chia tay, mặc cho Tâm khóc lóc, van xin.

Đau đớn, nhục nhã, ê chề, suốt một tuần dài Tâm sống trong tâm trạng bất an, lúc nào cũng cảm thấy lo sợ, không biết mình phải làm gì lại cũng không dám cho bố mẹ biết chuyện. Càng giận bản thân dại dột bao nhiêu Tâm càng cảm thấy có lỗi với cha mẹ, xấu hổ với chính mình bấy nhiêu.

Lo lắng, mất ngủ nhiều khiến Tâm trở nên phờ phạc, mệt mỏi, chán nản, em chẳng còn nghĩ gì đến chuyện học hành. Không muốn mọi người biết chuyện, Tâm lầm lũi tìm đến một cơ sở tư nhân để phá thai.

Cái thai đã trên 7 tuần tuổi nên em không thể dùng thuốc mà phải tiến hành nạo hút. Mới bước vào phòng khám, nhìn thấy các dụng cụ y tế trên bàn Tâm đã òa khóc nức nở, cảm giác nạo hút cực kỳ đau đớn, Tâm tưởng như chết luôn được trong căn phòng chật hẹp, tanh tưởi.

Nước mắt chảy ròng ròng, tâm không ngừng van nài xin bác sĩ nhẹ tay nhưng những gì Tâm nhận được chỉ là thái độ quát nạt, khó chịu. Sau 20 phút 'hành xác', Tâm gần như ngất lịm đi trên chiếc giường chênh vênh.

Cơn đau về thể xác đã qua, nhưng nỗi ám ảnh về tinh thần thì khó có thể nguôi ngoai. Ngày nào Tâm cũng gặp phải ác mộng, hình ảnh những khuôn mặt tái nhợt vì đau đớn, tiếng la hét, tiếng những dụng cụ y tế va vào nhau lạnh lẽo, mùi tanh tưởi của phòng phá thai nhỏ bé ngột ngào vẫn còn rõ như in trong tâm trí.

Cứ bật tỉnh dậy là Tâm lại ngồi ôm mặt khóc nức nở, Tâm khóc vì hối hận, em trách mình dại dột, em cảm thấy có lỗi với cha mẹ và cả đứa con mà em đã nhẫn tâm bỏ đi. Tâm cứ khóc mãi như thế cho đến lại ngủ thiếp đi vì kiệt sức…

Nỗi ám ảnh còn mãi…

Sinh ra và lớn lên ở một miền quê nghèo, Linh (sinh viên năm thứ 2 một trường đại học tại Hà Nội) là một cô gái chân chất, hiền lành. Rời quê xuống thành phố học tập, cô gái trẻ chẳng thể ngờ cuộc sống nơi đô thị phồn hoa lại quá nhiều cạm bẫy. 

Cuộc sống với Linh bắt đầu thay đổi từ ngày Linh quen và yêu Nam. Ngất ngây trong men say tình, Linh chẳng ngần ngại trao cho Nam thứ quý giá nhất đời con gái. Hai người nhanh chóng dọn về sống thử và rồi Linh dính bầu dù đã “phòng bị” khá kỹ.
Nhiều nữ sinh phải chiu sự ám ảnh kéo dài vì trót phá thai
(ảnh minh hoạ, nguồn Internet)

Những gì đọc được trên báo về hậu quả của chuyện phá thai khiến L. sợ hãi, cô muốn giữ lại đứa con, muốn cùng Nam xây dựng một gia đình hạnh phúc. Nhưng Nam từ ngọt nhạt chuyển sang đe dọa, chủi rủa rồi kiên quyết đưa Linh đi phá thai.

Quá yêu Nam, Linh đành chấp nhận đến trung tâm y tế. Sau lần đó, những đau đớn, ám ảnh, dày vò vơi bớt chưa bao lâu thì Tâm lại thêm một lần phải tìm đến phòng phá thai.

Cái thai đã 11 tuần tuổi nên Linh muốn để sinh, nhưng lại vấp phải sự phản đối kịch liệt của Nam, Linh đành nuốt nước mắt buông xuôi. Lần đó vì thai đã lớn nên Linh bị ra rất nhiều máu, nhìn máu tuôn như xối mà không biết đâu trong đó là con của mình, Linh khóc lóc vật vã trong nỗi đau và sự ân hận.

Những lời Linh tình cờ nghe được từ cuộc trò chuyện của cô bác sĩ tốt bụng và người bạn gái đưa Linh đi phá thai càng khiến trái tim cô quặn thắt, vỡ nát làm nghìn mảnh: “Cô chưa gặp trường hợp nào mà khát vọng sống của thai nhi lại lớn như vậy. Lấy ra cả mấy chục phút mà tim thai vẫn đập. Cô thấy mình có tội khi cướp đi cơ hội sống của sinh linh bé bỏng ấy”.

Những ngày sau đó, Linh luôn sống trong tâm lý nặng nề, lo âu, chán nản và bế tắc. Vết thương da thịt có thể khép miệng, nhưng nỗi đau đớn về tinh thần thì khó có thể nguôi ngoai.

Lời cô bác sĩ cùng sự ám ảnh về những đứa con 'đã mất' khiến Linh gần như phát điên. Có những lúc Linh khóc lóc, gào thét, có lúc lại lặng mình thơ thẩn nhìn về xa xăm. Rồi ngày nào Linh cũng mang bát cơm đầy với quả trứng có cắm hương lên sân thượng khu trọ để khấn lạy linh hồn con, bởi cô mong nhận được tha thứ và tìm lại chút thanh thản nơi tâm hồn…


Bế tắc


Chuyên tư vấn về sức khỏe sinh sản và giới tính của Công ty truyền thông EBOX cho biết: “Có một phụ huynh gọi điện đến tư vấn về cô con gái tên Thanh, 16 tuổi. Thanh khá xinh, trắng trẻo và ngoan ngoãn trong con mắt của gia đình và thầy cô.

Nhưng một lần mẹ Thanh đi làm bỗng thấy có linh cảm gì đó rất bồn chồn lo lắng nên đã vội về nhà sớm thì phát hiện ra cô con gái uống thuốc ngủ tự tử.

Đưa con kịp đến bệnh viện, chị còn bàng hoàng hơn khi bác sỹ thông báo con chị đang có thai”.

“Khi Thanh tỉnh dậy, chị đã gặng hỏi con bé ai là tác giả của cái thai đó, nhưng nó chỉ khóc và lắc đầu nói không biết. Tưởng con bé quá sợ mà không dám nói nên chị nhờ dì ruột của Thanh tỉ tê tâm sự thì được biết: Trong một lần vì theo bạn bè rủ rê vào nhà nghỉ, lúc đầu em từ chối nhưng bạn bè cứ kkích bác khiến em gật đầu đồng ý. Vào đó mọi người uống rượu rồi em không biết chuyện gì đã xảy ra. Khi tỉnh lại chỉ thấy cả bọn không mảnh vải che thân, em mới sợ hãi bỏ chạy ra về.

Đến khi biết có thai thì em không biết phải làm sao cả. Quá tuyệt vọng nên em đã tự tử”.

Theo Vietnamnet

Thông Điệp Tin Mừng về Sự Sống (p10)

“Con cái, đó là hồng ân Chúa ban; kết quả của dạ cưu mang, là phần thưởng ngài tặng” (Tv 127/126)

Gia đình, “cung thánh của sự sống”.

92. Trong lòng “dân tộc của sự sống và vì sự sống”, trách nhiệm gia đình có tính quyết định: đó là một trách nhiệm nảy sinh từ bản tính của gia đình – gia đình hệ tại là một cộng đồng tình yêu, dựa trên hôn nhân, và từ sứ mệnh của nó là “gìn giữ, biểu lộ và thông truyền tình yêu” (117). Đây thực sự là chính tình yêu của Thiên Chúa mà cha mẹ là những người cộng tác và như những thông dịch viên trong việc truyền ban sự sống và trong việc giáo dục, theo dự phòng của Chúa Cha (118). Vậy đây là một tình yêu đã tự hiến tặng nhưng không, đã trở nên sự đón tiếp và trao ban trong gia đình, người nào cũng được nhìn nhận, kính trọng và tôn quý, bởi vì họ là mộ nhân vị, và nếu người nào nhiều nhu cầu hơn, thì cáng đáng được dành cho sự quan tâm và những chăm sóc cấp thiết hơn.

Đạo Đức học về Phá Thai - Một lời kêu gọi đến lý trí

Rôma, ngày 20 tháng 3 năm 2011

Những người bảo vệ quyền phá thai thường chỉ trích những người bảo vệ sự sống vì cố áp đặt niềm tin tôn giáo của họ trên người khác.

Trong khi tôn giáo đưa ra những luận chứng vững chắc trong cuộc tranh luận nầy, thì chắc chắn đây không phải là toàn bộ câu chuyện, như một cuốn sách mới đây xuất bản. Christopher Kaczor, trong cuốn đạo đức học về phá thai: “Quyền phụ nữ, Sự sống con người và Vấn đề Công bằng” (Routledge), đưa ra một cái nhìn triết học về việc phá thai và giải thích tại sao nó không phải là vấn đề đạo đức.

Một trong những điểm chủ yếu mà Kaczor đưa ra là nhân vị bắt đầu hình thành khi nào. Một vài người ủng hộ phá thai tranh cãi rằng bạn cần phân biệt con người và ngôi vị. Ông ta đưa ra một ví dụ của bà Mary Anne Warren, người đưa ra một số tiêu chuẩn cần thiết trước khi chúng ta có thể nói một ai đó là một ngôi vị.

Bà ta đề xuất rằng con người ý thức về các sự vật và sự kiện, và có khả năng cảm thấy đau đớn. Họ cũng có năng lực của lý trí và có khả năng tự hoạt động, cùng với khả năng giao tiếp.

Để trả lời cho cuộc trang luận như thế, Kaczar đã lưu ý rằng, khi sử dụng các tiêu chuẩn như thế, thật là khó để tranh luận chống lại việc giết trẻ em, bởi vì một trẻ em mới sinh không thể đáp ứng các tiêu chuẩn này, huống hồ là một bào thai chưa sinh ra.


Hơn nữa, chúng ta không ngừng là những ngôi vị, khi chúng ta ngủ, hoặc dùng thuốc an thần khi giải phẫu, ngay cả vào lúc đó, chúng ta không ý thức hoặc đang cử động. Cũng thế, những con người mắc chứng mất trí hoặc những người tàn tật không thoả mãn được những tiêu chẩun về nhân vị của Warren. Một phương pháp khác để bào chữa cho việc phá thai dựa trên vị trí, nghĩa là, bạn đang ở bên trong hay bên ngoài tử cung hay không. Kaczor khẳng định rằng nhân vị đó chẳng qua là vấn đề về vị trí mà thôi. Nếu chúng ta thừa nhận cuộc tranh luận nầy, vậy thì nó cho rằng, khi thụ thai nhân tạo ngoài tử cung, sinh vật mới có nhân vị, nhưng sau đó, mất đi khi nó được cấy vào tử cung, và chỉ có lại nó khi nào nó rời tử cung.

Vị trí

Vậy thì cũng có những trường hợp giải phẫu mở bào thai, trong suốt cuộc giải phẫu, bào thai người đôi khi được đưa ra khỏi tử cung. Nếu chúng ta xác định nhân vị bằng việc hiện hữu bên ngoài tử cung, như vậy nó đưa chúng ta đến cái nhìn không đúng đắn rằng, trong những trường hợp như thế, thì bào thai không phải là người, rồi sau đó, nớ trở thành người, rồi lại trở thành không phải là người khi nó trở lại tử cung, chỉ trở thành người lại khi sinh ra. Loại trừ vị trí như là một tiêu chuẩn để được xem như một con người, như vậy Kaczar đã tranh luận vấn đề về nhân vị được thiết lập vào một điểm nào đó giữa thụ thai và sinh ra hay không. Khả năng có thể xảy ra nếu bào thai ở trong tử cung có tiềm năng sống bên ngoài tử cung của người mẹ, điều nầy đã được Toà Án Tối Cao Hoa Kỳ Roe v. Wade nhắc đến như là cách xác quyết bào thai người xứng đáng được luật pháp che chở không, Kaczar lưu ý.

Tuy nhiên, theo Kaczor, lập trường nầy có những vấn đề. Chẳng hạn như cặp sinh đôi dính nhau, đôi khi chúng lệ thuộc nhau suốt đời, và mặc dầu vậy, cả 2 vẫn được xem là những con người.

Khả năng sống của thai nhi cũng nảy sinh vấn đề bởi vì các thai nhi ở các nước giàu, với việc được chăm sóc sức khoẻ tốt, trở nên có thể sống sót hơn những thai nhi ở các nước nghèo. Và các thai nhi nữ có khả năng sống sót hơn các thai nhi nam. Phải chăng sự khác biệt giới tính và giàu có liên quan đến nhân vị?

Một phương pháp khác cần xét đến, là khả năng chịu đau đớn hoặc hưởng niềm vui thích thì khi nào chúng ta có thể đánh dấu việc khởi sự quyền được sống, Kaczor nói tiếp. Ông ta đã trả lời: Điều nầy vẫn chưa đủ. Điều nầy loại trừ những người ở trong trạng thái vô cảm hoặc hôn mê... Hơn thế nữa, ông ta nói, một vài loài vật có khả năng nầy, nhưng chúng ta không cho rằng chúng có quyền sống.

Một quan điểm khác có thể chấp nhận được trong cuộc tranh luận này, là cho rằng không phải tất cả sinh vật đều có khả năng cảm thấy vui thích hoặc đau đớn, do đó, chỉ những sinh vật có mức độ tri giác cao hơn và khả năng theo đuổi thiện ích phát triển hơn, phải được coi như là những con người, Kaczar giải thích.

Vấn đề ở đây là, ông ta lưu ý, những con người khác nhau nhiều trong khả năng của họ đối với đau đớn hoặc vui thích, và chúng ta khó lòng kết luận rằng điều nầy cung cấp cơ sở để cho rằng họ khác nhau hoàn toàn theo hạn từ nhân vị hoặc quyền hạn.

Thuyết tiệm tiến

Câu trả lời ủng hộ việc chọn lựa cho những lời phê bình ở trên, tạo nên hình thái của quan điểm tiệm tiến. Kaczor nói rằng điều nầy cốt ở việc tranh luận quyền được sống tăng lên dần dần trong sức mạnh, cũng như thời kỳ mang thai phát triển, và bào thai càng giống con người như chúng ta, thì nó càng được bảo vệ hơn.

Tuy nhiên, Kaczor lưu ý rằng có một sự khác biệt giữa quyền được sống và các quyền khác. Có những giới hạn tuổi bầu cử, lái xe, hoặc được bầu vào công sở. Điều nầy xảy ra bởi vì quyền liên quan đến khả năng hoàn thành trách nhiệm đi theo nó.

Tuy nhiên, quyền được sống, rõ ràng không bao gồm bất cứ trách nhiệm tương ứng nào, và vì thế, nó có thể được hưởng, không quan tâm đến tuổi tác hoặc năng lực trí tuệ.

Một vấn đề khác với phương pháp tiệm tiến, là sự phát triển của con người khó có thể kết thúc khi sinh ra. Nếu tình trạng luân lý được liên kết với việc phát triển sinh lý, như vậy, giết một đứa trẻ 14 tuổi đòi hỏi sự biện minh lớn hơn giết một đứa bé 6 tuổi.

Kaczor khẳng định rằng, sự thất bại về những cuộc tranh luận như thế dẫn chúng ta đi đến kết luận rằng, nếu không có những khác biệt có liên quan đến luân lý giữa những con người phát triển trong những giai đoạn khác nhau mà nó làm cho một vài người như là không-phải-con-người, do đó, phẩm giá và giá trị của con người không phải bắt đầu sau khi sinh ra, cũng không phải ở một thời điểm nào đó trong thời kỳ thai nghén. Vì thế, tất cả mọi người đều cũng là những con người có ngôi vị.

Lịch sử cung cấp cho chúng ta nhiều ví dụ về sự cần thiết phải tôn trọng mọi người như là những ngôi vị có phẩm giá. Hầu như hiện nay không ai, ít nhất ở Phương Tây, Kaczor biện luận, lại bảo vệ sự nô lệ, ghét phụ nữ, hoặc bài Do thái. Thật sự, chúng ta có biện minh cho việc đối xử một vài con người như là chưa phải là con người, hay là chúng ta sẽ bị lên án bởi lịch sử, đúng như có một thời theo cách bóc lột của kẻ mạnh đối với kẻ yếu?

Sự thụ thai

Điều nầy nêu lên vấn nạn về con người có phải bắt đầu hiện hữu từ khi thụ thai hay không. Đây chủ yếu không phải là vấn nạn về luân lý, mà là vấn đề khoa học, theo Kaczor.

Ông đã tiếp tục trích dẫn từ một số bản văn y học và khoa học, tất cả bản văn nầy xác quyết rằng, sự sống con người mới bắt đầu khi thụ thai và có sự thay đổi cơ bản trong việc tạo thành một sinh vật với 46 nhiễm sắc thể.

Sau khi thụ tinh không do tác lực bên ngoài hiện diện, nó sẽ biến đổi sinh vật mới được thụ thai thành một cái gì khác. Đúng hơn, phôi thai tự phát triển hướng đến tình trạng tương lai của nó.

“Nói một cách tương tự, phôi thai người vì thế không chỉ là bảng thiết kế chi tiết của một ngôi nhà sẽ được xây dựng, mà còn là một ngôi nhà rất nhỏ, tự nó xây rộng hơn và phức tạp hơn, ngang qua việc nó tự phát triển tích cực hướng đến trưởng thành”, Kaczar giải thích.

Tiếp theo vấn đề nầy, những chương cuối của cuốn sách xem xét một số tranh luận được những người bảo vệ phá thai sử dụng. Ông ta lần lượt khảo sát họ, từng người và chỉ ra những điểm yếu của họ.

Chẳng hạn, vấn đề được tranh luận là bởi vì ở những giai đoạn đầu, có thể xảy ra sự hình thành song thai, thì phôi thai không phải là một cá thể con người. Kaczor đã trả lời cho vấn đề nầy bằng cách biện luận rằng, ngay cả một sinh vật có thể được phân chia thành hai, điều ấy không có nghĩa là nó không bao giờ là một sinh vật cá biệt.

Cuối cùng, ông viết thêm, đa số cây có thể mọc lên thành những cây riêng lẽ, nhưng điều nầy không có nghĩa là một cái cây không thể là một cây khác, riêng biệt.

Ông cũng nghiên cứu những trường hợp khó khăn, chẳng hạn như việc mang thai vì bị hiếp dâm hay loạn luân. Kaczor nhấn mạnh, nhân vị của bào thai không tuỳ thuộc vào cách nó được thụ thai. Ông nói: “Không quan tâm những hoàn cảnh bạn được thụ thai và sinh ra, thì bạn vẫn là bạn”.

Cuốn sách đầy tranh luận của Kaczor chứa đựng nhiều tranh luận suy tư cẩn thận hơn, làm cho nó thành một nguồn có giá trị cho tất cả những ai quan tâm đến việc bảo vệ sự sống con người.


Linh mục John Flynn, LC

Linh mục Giuse Phan Miên dịch
(Nguyên bản tiếng Anh: Abortion's ethics - An Appeal to Reason
By Father John Flynn, LC – zenit.org 20.3.2011)


Nguồn: TGP Huế

Thông điệp tin mừng về sự sống (p9)

Chương IV

CHÍNH LÀ CHO TA MÀ CÁC CON LÀM ĐIỀU ĐÓ



TIẾN TỚI NỀN VĂN HOÁ MỚI CỦA SỰ SỐNG CON NGƯỜI


“Anh em là dân tộc thuộc về Thiên Chúa, có nhiệm vụ loan báo những kỳ công của Ngài” (x. 1Pr 2,9)


Dân tộc của sự sống và vì sự sống


78. Giáo Hội đã đón nhận Tin Mừng như một loan báo và như một nguồn vui và nguồn cứu độ. Giáo Hội đón nhận Tin Mừng như hồng ân của Chúa Giêsu, Đấng mà Chúa Cha sai xuống “đề mang Tin Mừng cho người nghèo khó” (Lc 4,18). Giáo Hội đón nhận Tin Mừng qua các Tông đồ được Chúa sai khắp thế gian (x. Mc 16,15; Mt 28,19-20). Được sinh ra từ hành động loan báo Tin Mừng này, Giáo Hội cảm thấy vang lên trong lời mình lời cảnh cáo hằng ngày của Thánh Tông Đồ: “Khốn cho tôi, nếu tôi không loan báo Tin Mừng” (1Cr 9,16). Như Đức Phaolô VI đã viết, phúc âm hoá quả thực là hồng ân và ơn gọi riêng của Giáo Hội, là căn tính sâu xa nhất của Giáo Hội. Giáo Hội hiện hữu để loan báo Tin Mừng (101).


Phúc âm hoá là hành động bao quát và năng động, đưa Giáo Hội tới chỗ tham gia sứ mệnh ngôn sứ, tư tế và vương giả của Chúa Giêsu. Vì thế, việc ấy bao gồm một cách không thể tách rời các chiều kích của việc loan báo, cử hành và việc phục vụ của đức ái. Đó là hành vi mang tính Giáo Hội sâu xa liên quan tới mọi người thợ làm việc cho Tin Mừng, mỗi người theo ơn đoàn sủng và thừa tác vụ của mình.


Cũng như thế đối với việc loan báo Tin Mừng về sự sống, thành phần của Tin Mừng, là Chúa Giêsu Kitô. Chúng ta là những người phục vụ Tin Mừng này, được nâng đỡ bởi ý thức rằng mình đã đón nhận Tin Mừng ấy như một hồng ân và được sai đi để loan báo Tin Mừng ấy cho cả nhân loại “tới mãi tận cùng trái đất” (Cv 1,8). Chính vì thế chúng ta khiêm tốn và tri ân duy trì tâm tư mình là dân của sự sống và vì sự sống: trước mặt mọi người chúng ta thật sự là như vậy đó.


79. Chúng ta là dân của sự sống và vì sự sống bởi lẽ, trong tình yêu nhưng không của Ngài, Thiên Chúa đã ban cho ta Tin mừng về sự sống và bởi lẽ Tin Mừng này đã biến đổi và cứu chuộc chúng ta. Chúng ta được “Đấng ban sự sống” chinh phục lại (Cv 3,15) với giá bửu huyết của Ngài (x. 1Cr 6,20; 7,23; 1Pr 1,19), nhờ được dìm trong giếng Thanh Tẩy, ta được tháp nhập vào Ngài (x. Rm 6,4-5); Cl 2,12) như những cành cây hút từ cùng một thân cây nhựa sống và sinh hoa kết trái (x. Ga 15,5). Được canh tân trong nội tâm bởi ơn Chúa Thánh Thần, “Ngài là Chúa và là Đấng ban sự sống”, chúng ta đã trở nên dân tộc vì sự sống và chúng ta được gọi để cư xử trong tư cách ấy.


Chúng ta được sai đi: đối với chúng ta, phục vụ sự sống, không phải là lý do cho ta kiêu ngạo, mà là bổn phận phát sinh từ ý thức rằng mình là: “dân tộc Chúa đã chiếm hữu, để tuyên xưng lời ca tụng Ngài” (x. 1Pr 2,9). Luật của tình yêu hướng dẫn ta và nâng đỡ ta trên đường đi, tình yêu mà Con Thiên Chúa làm người là nguồn mạch phát sinh và mẫu gương, Ngài “đã ban sự sống cho thế gian nhờ cái chết của mình” (102).


Chúng ta được sai đi như một dân tộc.Việc dấn thân phục vụ sự sống liên hết tới từng người. Đó là một trách nhiệm mang tính “Giáo Hội”, nó đòi một hành động nhịp nhàng và quảng đại của mọi thành viên và mọi cơ cấu trong Cộng đoàn Kitô giáo. Tuy nhiên, bổn phận chung không loại bỏ và không giảm bớt trách nhiệm cá nhân, bởi vì lệnh truyền của Chúa nói với từng con người là phải làm cho mọi người thành người lân cận của mình: “Anh hãy đi, và chính anh hãy làm như thế” (Lc 10,37).


Tất cả chúng ta cùng cảm thấy bổn phận loan báo Tin Mừng về sự sống, tôn dương Tin Mừng này trong phụng vụ và trong cả cuộc sống, phục vụ Tin Mừng này bằng nhiều sáng kiến và nhiều tổ chức có mục đích yểm trợ và cổ võ Tin Mừng ấy !


Điều chúng tôi đã thấy và đã nghe, chúng tôi loan báo cho anh em” (1Ga 1,3)

Loan báo Tin Mừng về sự sống

80. Điều ngay từ đầu đã có, điều chúng tôi đã nghe, điều chúng tôi đã tận tay sờ tới về Lời Sự Sống… chúng tôi loan báo cho anh em, để anh em cùng hiệp thông với chúng tôi” (1Ga 1,1-3). Chúa Giêsu là Tin Mừng duy nhất: không có tin mừng nào khác mà chúng ta tuyên xưng và làm chứng.


Loan báo Chúa Giêsu, đúng là loan báo sự sống. Vì Ngài là “Lời Sự Sống” (1Ga 1,1). Nơi Ngài “sự sống đã được tỏ hiện” (1Ga 1,2), hoặc đúng hơn chính Ngài là “sự sống đời đời ấy, vẫn hướng về Chúa Cha và đã hiện cho chúng ta thấy” (1Ga 1,2).


Chính là sự sống ấy, nhờ ơn Chúa Thánh thần, đã được thông ban cho con người. Được hướng về sự sống sung mãn, về sự sống vĩnh hằng, nên sự sống trần gian của mỗi người đã có được tất cả ý nghĩa của mình.


Được soi sáng bởi Tin Mừng về sự sống chúng ta cảm thấy nhu cầu cần phải công bố và làm chứng tá trong một sự mới lạ làm nổi bật Tin Mừng này: bởi vì Tin Mừng này đồng nhất với chính Chúa Giêsu là Đấng đem đến mọi điều mới lạ (103) và là Đấng chiến thắng mọi “già cỗi” xuất phát từ tội lỗi và đưa tới sự chết (104), Tin Mừng vượt quá lòng mong chờ của con người, và mặc khải những độ cao tuyệt vời mà nhờ ân sủng, phẩm giá con người đã được nâng lên. Đó là điều mà Thánh Grêgoriô Nyssênô đã chiêm ngắm: “Trong các hữu thể, thì con người chẳng đáng kể là gì, con người là cát bụi, rơm rác, phù vân, thế mà một khi trở nên nghĩa tử của Thiên Chúa Chủ Tể càn khôn, lại được thân mật với Đấng mà không ai có thể thấy, hoặc nghe, hoặc hiểu được sự tuyệt đối thiện hảo và vĩ đại của Ngài. Ta dùng lời nói, tư tưởng nào, tầm vương cao nào của tâm trí để có thể tung hô sự sung mãn của ơn này? Con người siêu việt hơn bản tính mình: từ chỗ chết vươn tới bất tử, từ chỗ hư nát vươn tới bất khả hư nát, từ phù vân qua vĩnh cửu, tóm lại, từ thân phận là người được trở nên Thiên Chúa” (105).


Niềm tri ân và hân hoan vì phẩm giá khôn lường của con người thúc đẩy ta phải làm cho cả thế giới được hưởng sứ điệp này: “Điều mà chúng tôi đã thấy và đã nghe, chúng tôi loan báo cho anh em, để anh em được hiệp thông với chúng tôi” (1Ga 1,3). Cần thiết phải làm cho Tin Mừng về sự sống đến được với mọi người, nam cũng như nữ, đưa Tin Mừng ấy vào trong những ngõ ngách sâu kín nhất của toàn xã hội.


81. Đây là vấn đề, trước hết, phải công bố tâm điểm của Tin Mừng này. Đó là việc loan báo về Đấng Thiên Chúa hằng sống và gần gũi, Ngài gọi tới hiệp thông sâu xa với Ngài, và mở cho ta niềm hy vọng vững chắc được sống đời đời; đó là sự khẳng định về mối dây không thể tách lìa giữa ngôi vị, sự sống và tính xác thể của con người; đó là việc trình bày sự sống con người như là sự sống liên đới, là hồng ân Thiên Chúa, là kết quả và dấu chỉ của tình yêu Ngài; đó là việc công bố mối tương quan khác thường giữa Chúa Giê su với từng người, cho phép ta nhìn trên gương mặt con người chính dung mạo Chúa Kitô; đó là việc “bày tỏ sự hiến dâng trọn bản thân” như một bổn phận và như nơi thể hiện đầy đủ sự tự do.


Đồng thời, cũng trình bày mọi hậu quả của chính Tin Mừng này mà ta có thể tóm lược như sau: là hồng ân quý báu Chúa ban, sự sống con người thì thánh thiêng và bất khả xâm phạm, và vì thế, đặc biệt việc có ý phá thai là làm chết êm dịu đều tuyệt đối không thể chấp nhận được, không những không được huỷ diệt sự sống con người mà còn phải bảo vệ nó trong mối quan tâm đầy tình thương; sự sống tìm thấy ý nghĩa của nó trong tình yêu được tiếp nhận và được trao ban: chính ở tầm mức này mà giới tính và việc truyền sinh của con người đạt tới chân tính của chúng; trong tình yêu này, đau khổ và sự chết cũng có một ý nghĩa và, mặc dầu còn mãi mầu nhiệm bao quanh chúng, đau khổ và sự chết có thể trở nên những biến cố cứu độ, lòng tôn trọng sự sống đòi hỏi khoa học và kỹ thuật phải được hiến về con người và sự phát triển toàn diện con người; toàn xã hội tôn trọng, bênh vực và thăng tiến phẩm giá của mọi con người, vào mọi thời điểm và mọi tình trạng của cuộc sống họ.


82. Để được thực sự là một dân tộc biết phục vụ sự sống chúng ta phải kiên trì và can đảm đề nghị sứ điệp này, ngay từ lời đầu tiên loan báo Tin Mừng, và tiếp sau là trong giáo lý và những hình thức giảng thuyết khác nhau, trong đối thoại cá nhân cũng như trong mọi công trình giáo dục. Các nhà giáo dục, giáo viên, các người giảng dạy giáo lý và thần học gia, đều có bổn phận làm nổi bật lên những lý do nhân loại học xây dựng và nâng đỡ lòng tôn trọng mọi sự sống con người. Bằng cách này, khi làm sáng ngời tính mới lạ độc đáo của Tin Mừng về sự sống, chúng ta có thể giúp mọi người cũng khám phá ra, nhờ ánh sáng của lý trí và của kinh nghiệm, bằng cách này mà sứ điệp Kitô giáo soi sáng đầy đủ con người, cũng như ý nghĩa hữu thể và hiện hữu của con người, chúng ta cũng sẽ tìm được nhiều điểm gặp gỡ và đối thoại quý báu với những người không tín ngưỡng, trong khi cùng nhau dấn thân làm phát triển nền văn hoá của sự sống mới.

Bị tấn công bởi những ý kiến đối nghịch nhất, khi mà có nhiều người chối bỏ giáo lý chân chính về sự sống con người, chúng ta cảm thấy lời căn dặn của Thánh Phao lô gửi cho Tim ô thê cũng như đang được nói với mình: “Hãy rao giảng Lời Chúa, hãy ứng phó lúc thuận lúc nghịch, hãy biện bác, hãy khiển trách, hãy khuyên lơn, với tất cả lòng kiên nhẫn và dụng tâm dạy dỗ” (2 Tm 4,2). Lời khuyên này phải được vang dội thật mạnh trong trái tim của mọi người, trong Giáo Hội, đang tham gia trực tiếp hơn, dưới nhiều tước vị, vào sứ mệnh của Giáo Hội là “thầy” dạy chân lý. Lời khuyên này phải liên quan đến chúng ta trước hết,. chúng ta, các Giám mục: chúng ta là những người đầu tiên được kêu gọi làm sứ giả không mỏi mệt rao giảng Tin Mừng về sự sống, chúng tta cũng có bổn phận canh giữ sự truyền thông trọn vẹn và trung thành giáo huấn được nhắc lại trong Thông điệp này và đưa ra những biện pháp thích hợp nhất để các tín hữu được bảo vệ khỏi mọi lý thuyết trái nghịch giáo huấn này. Chúng ta phải đặc biệt chú ý tới điều này là trong các phân khoa thần học, các chủng viện và các trường Công giáo khác nhau, sự hiểu biết giáo lý lành mạnh này phải được truyền bá, giải thích và đào sâu (106). Lời khuyên của Thánh Phaolô cũng phải được nghe biết bởi tất cả các nhà thần học, các mục tử và bởi tất cả mọi người có sứ mệnh giáo huấn, dạy giáo lý và đào tạo các lương tâm: thấu suốt vai trò mình phải chu toàn, họ sẽ không bao giờ phải chịu trách nhiệm nặng nề vì đã phản bội chân lý và sứ mệnh riêng của mình bằng cách trình bày những ý tưởng cá nhân nghịch với tin Mừng về sự sống mà quyền giáo huấn đã nhắc lại và giải thích cách trung thành.


Trong việc loan báo Tin Mừng này, chúng ta không được sợ bị thù oán hay sợ thất nhân tâm, nhưng phải từ chối mọi sự đồng loã hay mọi sự hàm hồ làm cho chúng ta phù hợp với não trạng thế gian (x. Rm 12,2). Chúng ta phải ở trong thế gian, nhưng không thuộc về thế gian (x. Ga 15,19; 17,16), nhờ sức mạnh đến ta từ Chúa Kitô, Đấng chiến thắng thế gian bằng sự chết và cuộc chinh phục của Ngài (x. Ga 16,38).



“Con tạ ơn Chúa vì bao nhiêu kỳ công” (Tv 139/138,14)

Tôn dương Tin mừng về sự sống


83. Được sai đi khắp thế gian như “dân tộc vì sự sống”, việc loan báo của ta cũng phải trở nên việc tôn dương Tin mừng về sự sống. Hơn nữa, việc tôn dương này, với sức mạnh gợi ý của các cử chỉ, các biểu tương và các nghi thức, được mời gọi trở thành nơi chốn riêng biệt và rất ý nghĩa cho việc truyền đạt vẻ đẹp và sự cao cả của Tin Mừng ấy.


Với mục đích này, trước hết cần kiếp phải duy trì nơi ta và nơi người khác một cái nhìn chiêm niệm (107). Cái nhìn này phát sinh từ lòng tin kính Thiên Chúa của sự sống. Đấng đã tạo dựng mọi con người, bằng cách làm cho họ nên như một kỳ công (x. Tv 139/138,14). Đó là cái nhìn của ai trông thấy sự sống tận chiều sâu của nó bằng cách thấu hiểu những chiều kích của sự nhưng không, của vẻ đẹp, của tiếng kêu mời đến với tự do và trách nhiệm. Đó là cái nhìn của ai không kỳ vọng làm chủ thực tại, nhưng đón nhận thực tại như một hồng ân, khám phá trong mọi sự ánh phản chiếu của Đấng Tạo Hoá và trong mọi người hình ảnh sống động của Ngài (x. St 1,27; Tv 8,6). Cái nhìn này không để mất lòng tin cậy trước kẻ bệnh tật, đau khổ, bị gạt ra bên lề, hay đang đứng bên ngưỡng cửa của sự chết, nhưng cái nhìn này lắng nghe lời chất vấn của tất cả tình cảnh đó, để đi tìm ra một ý nghĩa, và trong những dịp ấy, cái nhìn này sẵn sàng nhận ra trên khuôn mặt mọi người một lời mời gọi gặp gỡ, đối thoại và liên đới.


Linh hồn cảm kích vì nỗi sửng sốt mang tính tôn giáo, đã đến giờ tất cả chúng ta cần có cái nhìn ấy để lại có khả năng tôn quý và trọng vọng mọi người, như Đức Phaolô VI đã mời gọi ta thực hiện, trong một sứ điệp Giáng Sinh (108). Được thúc đẩy bởi cái nhìn chiêm niệm ấy, dân tộc mới của những người cứu chuộc không thể không vang lên những khúc ca hân hoan, khen ngợi và tri ân đối với hồng ân vô giá là sự sống, đối với mầu nhiệm của lời kêu gọi tất cả mọi người tham dự, trong Chúa Kitô, vào đời sống ân sủng và vào cuộc sinh tồn hiệp thông vô tận với Thiên Chúa là Đấng Tạo Thành và là Cha.


84.
Tôn dương Tin mừng về sự sống có nghĩa là tôn dương Thiên Chúa của sự sống, Thiên Chúa ban sự sống: “Chúng ta phải tôn dương sự sống đời đời, từ đó phát nguyên mọi hình thức sự sống. Chính từ sự sống đời đời mà mọi hữu thể, tuỳ khả năng của mình, đã nhận được sự sống, tức là mọi hữu thể tham dự vào sự sống cách này hay cách khác. Sự Sống thần linh, vượt trên mọi hình thức sự sống, đang tác sinh và bảo tồn sự sống. Mọi hình thức sự sống và mọi vận động có sinh khí đều phát xuất từ sự sống siêu việt trên mọi sự sống và mọi nguyên lý sống khác. Các linh hồn phải nhờ Sự sống ấy mà mọi động vật và thảo mộc - nhận từ đó tia sống nhỏ bé nhất - mới được sống động. Còn đối với con người, là những hữu thể được làm nên bằng tinh thần và vật chất thì Sự Sống ban cho họ sức sống. Và nếu ta phải bỏ sự sống này, thì lúc ấy Sự Sống cải hoá chúng ta và gọi ta đến với Sự Sống nhờ tình yêu sung mãn của sự sống đối với con người. Hơn thế nữa, Sự Sống còn hứa dẫn đưa ta cả hồn và xác đến sự sống hoàn hảo, đến sự bất tử, thật quá ít khi nói rằng Sự Sống ấy hằng sống mà phải nói: Sự Sống ấy là Nguyên Lý sự sống, là Nguyên nhân và Nguồn mạch duy nhất phát sinh Sự Sống. Mọi sinh vật phải chiêm ngắm và ngợi khen Sự Sống ấy: vì đó là Sự Sống ban cho ta được sống dồi dào. (109)


Cùng với tác giả Thánh Vịnh, trong kinh nguyện hằng ngày, cá nhân hay cộng đoàn, chúng ta ngợi khen và chúc tụng Thiên Chúa, Cha chúng ta, Đấng đã dệt nên chúng ta trong lòng mẹ, Đấng đã thấy và yêu thương chúng ta khi chúng ta chưa được hoàn chỉnh hình hài (x. Tv 139/138,13.15.16), và reo lên với niềm vui tràn đầy: “Con cảm tạ Chúa vì biết bao kỳ công: lạ lùng thay thân con, lạ lùng thay những công trình của Chúa” (Tv 139/138,14). Phải “sự sống hay chết này, mặt dầu những dằn vặt, những mầu nhiệm tăm tối, những đau đớn và nỗi mỏng dòn không thể tránh được, lại là một thực tại lạ lùng, một kỳ diệu luôn mới và gây cảm động, một biến cố đáng được ca ngợi và tôn vinh trong niềm hân hoan” (110). Vả lại, con người và sự sống con người không chỉ xuất hiện như một trong những điều kỳ diệu lớn nhất trong công trình sáng tạo, nhưng Thiên Chúa còn ban cho con người một phẩm giá gần như là thần thiêng (x. Tv 8,6-7). Trong từng em bé sinh ra hay trong từng con người đang sống hay đang chết, chúng ta đều nhận ra hình ảnh của vinh quang Thiên Chúa: Ta tôn dương vinh quang ấy nơi mọi người là dấu chỉ của Thiên Chúa hằng sống, hình ảnh của Chúa Giêsu Kitô.


Chúng ta được mời gọi bày tỏ nỗi ngạc nhiên thán phục và biết ơn vì sự sống ta nhận được như một hồng ân, và đón tiếp, trân trọng, thông báo Tin mừng về sự sống, không những trong lời kinh riêng tư và cộng đoàn, mà nhất là trong những việc cử hành Năm Phụng vụ. Ở đây phải nhắc riêng đến các bí tích là dấu chỉ linh nghiệm về sự hiện diện và hành động cứu độ của Chúa Giêsu trong cuộc sống Kitô hữu: những bí tích ấy làm cho con người được tham dự đời sống Thiên Chúa, trong khi bảo đảm cho họ một nghị lực thiêng liêng, cần thiết để thấu hiểu, trong tất cả sự thật, ý nghĩa của sự sống, của sự đau khổ, và của sự chết. Nhờ sự tái khám phá đích thực ý nghĩa các nghi thức, và nhờ việc đặt đúng giá trị của các nghi thức ấy, các cử hành phụng vụ, nhất là cử hành bí tích, sẽ luôn luôn có thể diễn tả tất cả sự thật về việc sinh ra đời, và sự sống, về sự đau khổ và sự chết, trong khi giúp ta sống những điều ấy, như một sự tham gia vào mầu nhiệm vượt qua của Chúa Kitô đã chết và phục sinh.


85. Trong việc cử hành Tin mừng về sự sống, cần phải biết thẩm định và làm nổi bật giá trị những nghĩa cử và những biểu hiện rất phong phú trong các truyền thống khác nhau và trong các tập quán văn hoá bình dân. Đó là những cơ hội và những hình thức giao lưu, qua đó được biểu lộ trong nhiều quốc gia và nhiều nền văn hoá khác nhau niềm vui của sự sống đang bắt đầu, sự tôn trọng và sự bảo vệ toàn vẹn sự sống con người, sự quan tâm đến người đau khổ hoặc đến những kẻ đang gặp khó khăn, sự gần gũi đối với người già yếu hay kẻ đang hấp hối, sự chia sẻ nỗi đau của người gặp tang chế, niềm hy vọng và khát khao cõi vĩnh hằng.


Trong viễn tưởng ấy, tôi cũng đã đón nhận sự gợi ý của các vị Hồng y nhân Hội nghị năm 1991 và tôi đề nghị chớ gì hằng năm trong nhiều quốc gia khác nhau được cử hành một Ngày vì sự sống như đã được thực hiện theo sáng kiến của một số Hội đồng Giám Mục. Chớ gì ngày này nên được chuẩn bị và cử hành với sự tham gia tích cực của mọi thành phần trong giáo hội địa phương. Mục đích căn bản của ngày này là để khơi dậy trong mọi lương tâm, trong mọi gia đình, trong Giáo Hội và trong xã hội loài người sự nhận biết ý nghĩa và giá trị của sự sống con người ở mọi giai đoạn, trong mọi hoàn cảnh, bằng cách gây sự chú ý đặc biệt đến tính chất nghiêm trọng của việc phá thai và làm chết êm dịu, nhưng không vì đó mà coi thường những thời kỳ và những khía cạnh khác của sự sống, cũng đáng được quan tâm trong từng trường hợp, tuỳ vào sự biến chuyển của hoàn cảnh.


86. Trong tin thần thờ phượng thiêng liêng đẹp lòng Thiên Chúa (x. Rm 12,1), việc tôn dương Tin Mừng về sự sống nên được thực hiện cốt yếu là trong cuộc sống hằng ngày, được sống trong tình yêu tha nhân và trong sự trao hiến bản thân. Chính cuộc sống của chúng ta sẽ trở nên sự tiếp nhận chân thực và đầy trách nhiệm trước ân ban sự sống, đồng thời cũng trở nên bài ca chân thành biết ơn Thiên Chúa, Đấng trao ban cho chúng ta quà tặng này. Đó chính là điều đang xảy ra trong biết bao hành vi phước thiện, thường thường khiêm tốn và ẩn kín, được nhiều người nam người nữ, trẻ em, người lớn, người trẻ người già, đau ốm hay mạnh khoẻ thực hiện.


Chính trong bối cảnh chan chứa tình người và tình yêu như thế, mà phát sinh nhiều nghĩa cử anh hùng. Những nghĩa cử này là việc tôn dương Tin Mừng về sự sống cách trọng đại nhất, bởi vì chúng công bố Tin Mừng bằng chính việc trao hiến trọn vẹn bản thân mình, chúng là sự biểu hiện rực rỡ của mức độ cao nhất của tình yêu: trao hiến mạng sống mình vì người mình yêu (x. Ga 15,13); chúng là sự hiệp thông vào mầu nhiệm thập giá, trên cây thập giá Chúa Giêsu mặc khải cho ta thấy tất cả giá trị mà sự sống của mọi người có được đối với Ngài và sự sống này được thực hiện cách tràn đầy trong việc trao hiến trọn vẹn bản thân mình như thế nào. Ngoài những công việc hiển hách, còn có sự anh hùng thường ngày, hình thành từ những hành vi chia sẻ nhỏ nhặt hay to tát đang làm phong phú nền văn hoá đích thực của sự sống. Giữa những nghĩa cử này, đặc biệt nên đánh giá cao việc hiến tặng các bộ phận thân thể, thực hiện dưới một hình thức luân lý có thể chấp nhận được; việc tự hiến tặng này cho phép nhiều bệnh nhân đôi khi tuyệt vọng, có được viễn tượng mới mẻ về sức khoẻ và ngay cả sự sống.


Thuộc về sự anh hùng thường ngày là việc làm chứng thầm lặng, nhưng phong phú và hùng hồn biết bao, của “tất cả những bà mẹ dũng cảm tự hiến trọn vẹn cho gia đình, chấp nhận đau khổ khi sinh con, và sau đó sẵn sàng chịu đựng mọi mệt nhọc, đương đầu với mọi hy sinh để truyền đạt cho con cái điều tốt đẹp nhất mà các bà có được” (111). Trong khi hoàn thành sứ mệnh của mình, “không phải lúc nào các bà mẹ anh hùng này cũng được người thân cận nâng đỡ. Trái lại, nhiều mô hình văn minh, thường được các phương tiện truyền thông xã hội cổ xuý và phổ biến, không mấy ưu đãi tình mẫu tử. Nhân danh sự tiến bộ và tính hiện đại, từ nay người ta coi như lỗi thời các giá trị của sự thuỷ chung, đức khiết tịnh và sự hy sinh đã và vẫn còn làm rạng rỡ vo số những người vợ, người mẹ công giáo… Chúng tôi cám ơn các bà vì sự hy hiến mạng sống của các bà… Trong huyền nhiệm phục sinh, Chúa Ki tô hoàn lại cho các bà quà tặng mà các bà đã làm. Quả vậy, Ngài có quyền ban trả cho các bà sự sống mà các bà đã mang làm của lễ dâng lên Ngài” (112).



“Ích gì, hỡi anh em, khi ai nói “tôi có đức tin” mà việc làm không có?” (Gc 2,14)

Phục vụ Tin Mừng về sự sống


87. Bằng việc tham dự vào sứ mệnh vương giả của Chúa Kitô, sự nâng đỡ và thăng tiến sự sống con người cần được thi hành bằng việc phụ vụ của đức ái, thể hiện qua chứng từ cá nhân, qua nhiều hình thức thiện nguyện, vận động xã hội và dấn thân làm chính trị. Đó là một đòi buộc đặc biệt cấp bách trong thời điểm hiện tại, lúc mà “nền văn hoá sự chết” đang kịch liệt chống đối và thường thường xem ra lấn lướt “nền văn hoá sự sống”. Nhưng trước đó phải nói đến một đòi buộc phát sinh từ “đức tin thể hiện ra bằng đức ái” (Ga 5,6), như thánh Giacôbê khuyến dụ chúng ta: “Thưa anh em, ai bảo rằng mình có đức tin mà không hành động theo đức tin, thì nào có ích gì? Đức tin có thể cứu người ấy được chăng? Giả như có người anh em hay chị em không có áo che thân và không đủ của ăn hằng ngày, mà có ai trong anh em lại nói với họ: “hãy đi bình an, mặc cho ấm và ăn cho no, nhưng lại không cho họ những thứ thân xác họ đang cần, thì nào ích gì?” Gc 2,14-17).


Trong công việc phục vụ của đức ái, có một trạng thái tinh thần cần động viên và nâng phẩm giá chúng ta: chúng ta phải chăm sóc người khác như một nhân vị được Thiên Chúa giao phó cho trách nhiệm của chúng ta. Như những môn đệ của Chúa Giêsu, chúng ta được mời gọi trở nên người thân cận của mọi người (x. Lc 10,29-37), với sự ưu tiên cho kẻ bất hạnh nhất, cô đơn nhất và ngặt nghèo nhất. Chính trong lúc trợ giúp kẻ đói khát, người xa lạ, kẻ mình trần thân trụi, bệnh tật hay tù đày, cũng như trợ giúp em bé sắp sinh, người già nua đau ốm hay gần kề cửa tử thần, mà chúng ta được gọi để phụng sự Chúa Giêsu, như chính Ngài đã nói: “Những gì các con đã làm cho một người trong các anh em hèn mọn nhất này của Ta, là các con đã làm cho chính Ta” (Mt 25,40). Bởi vậy cho nên chúng ta không thể không cảm thấy bị chất vấn và kết án bởi những lời lẽ luôn luôn hiện thực của Thánh Gioan Kim Khẩu: “Bạn muốn tôn kính Mình Thánh Chúa Kitô ư? Bạn đừng khinh dể Người khi Người trần trụi – đừng tôn kính Người nơi đây, trong nhà thờ, sau lớp vải lụa, trong lúc mà bạn để Người ở ngoài kia khổ sở vì rét, vì không đủ áo che thân” (113).


Công việc phục vụ của Đức ái đối với sự sống cần phải thống nhất sâu sát: không được khoan nhượng với điều gì phiến diện hoặc có thể gây phân biệt, bởi vì sự sống của con người là thánh thiêng và bất khả xâm phạm trong mọi giai đoạn, trong mọi hoàn cảnh; sự sống ấy là một tài sản không thể chia tách được. Vậy cần phải “chăm sóc” mọi sự sống và sự sống của mọi người. Hoặc hơn nữa, cần phải đi đến tận chính gốc rễ của sự sống và của tình yêu.


Chính từ tình yêu sâu xa dành cho mọi người nam và mọi người nữ mà phát triển qua nhiều thế kỷ lịch sử phi thường của đức ái, đã đưa vào đời sống Giáo Hội và dân sự rất nhiều tổ chức nhằm phục vụ sự sống, gây kinh ngạc cho mọi quan sát viên không được loan báo trước. Đó là lịch sử mà mọi cộng đoàn Công giáo phải tiếp tục viết bằng hoạt động mục vụ và xã hội đa dạng, cùng với ý thức mới mẻ về thách nhiệm. Để đạt được mục tiêu trên, nên vận dụng những hình thức hợp lý và hữu hiệu hỗ trợ sự sống mới sinh ra, bằng cách đặc biệt gần gũi các bà mẹ, dù không có người cha nâng đỡ, vẫn không sợ sinh đẻ để giáo dục con cái. Người ta cũng chăm sóc như thế đối với sự sống bên lề xã hội hoặc đang đau khổ, đặc biệt trong giai đoạn sau cùng.


88. Tất cả điều đó cho phép một hoạt động có tính giáo dục đầy nhẫn nại và dũng cảm động viên mỗi người vác gánh nặng của tha nhân (x. Gl 6,2); điều đó đòi hỏi một sự cổ vũ nâng đỡ các ơn gọi phục vụ, đặc biệt nơi giới trẻ; điều đó bao hàm việc thực hiện những sáng kiến và những kế hoạch cụ thể, lâu dài được Tin Mừng soi dẫn.


Có nhiều cách thức đề làm nổi bật một cách có thẩm quyền và nghiêm túc giá trị trong sự dấn thân. Đối với thời kỳ bắt đầu sự sống, cần huy động những trung tâm điều hoà sinh sản bằng phương pháp tự nhiên như chỗ dựa vững chắc cho kẻ làm cha mẹ có trách nhiệm, nhờ đó tất cả mọi người, bắt đầu từ trẻ em. Được công nhận và tôn trọng vì chính mình, và nhờ đó mọi sự lựa chọn đều khơi động và hướng dẫn từ thước đo của sự trao hiến trọn vẹn bản thân mình. Chính bởi tác động đặc trưng của lời khuyên và dự kiến, được bày tỏ dưới ánh sáng nhân chủng học, phù hợp với quan niệm công giáo về con người, về đôi lứa và về tính dục, mà các nhà cố vấn hôn nhân nhân và gia đình trở thành những trợ tá quý báu để tái khám phá ý nghĩa của tình yêu và sự sống, và để nâng đỡ, hỗ trợ mỗi gia đình trong sứ mệnh là “cung thánh của sự sống”. Còn những trung tâm tương trợ sự sống và những nhà hoặc trung tâm tiếp nhận sự sống cũng sẵn sàng phục vụ sự sống mới sinh ra. Nhờ hoạt động của những cơ sở đó, rất nhiều bà mẹ độc thân và rất nhiều cặp vợ chồng đang gặp khó khăn tìm lại được lẽ sống và niềm tin khi có được sự trợ giúp và nâng đỡ để vượt qua khó khăn và sợ hãi trước việc đón nhận một sự sống sắp sinh ra hoặc vừa mới chào đời.


Đứng trước tình cảnh túng quẫn, bệnh tật hoặc lạc lõng bên lề xã hội, còn có những tổ chức khác như các cộng đồng phục hồi người nghiện ngập, cộng đồng tiếp nhận vị thành niên hay bệnh nhân tâm thần, trung tâm chăm sóc và tiếp nhận bệnh nhân AIDS, nhất là hiệp hội tương trợ người tàn tật, tất cả đều là tiếng nói hùng hồn của đức ái, biết tìm ra phương cách tạo ra cho mỗi người vì nhiều lý do mới mẻ để mà hy vọng và nhiều khả năng cụ thể để sinh sống.


Cuối cùng, khi cuộc sống trần gian đến thời kết thúc cũng chính đức ái tìm ra những dạng thức thích hợp nhất hầu cho những người có tuổi, đặc biệt những người không thể sinh sống một mình, và những bệnh nhân ở vào giai đoạn cuối cùng có thể hưởng một sự trợ giúp hết sức nhân đạo và nhận được những đáp ứng phù hợp với các nhu cầu của họ, nhất là với những gì liên quan đến nỗi lo âu và sự cô đơn của họ. Trong những trường hợp này không có gì có thể thay thế được vai trò của gia đình, nhưng các gia đình có thể tìm gặp được một chỗ nương tựa đáng kể trong những tổ chức cứu tế xã hội, và khi cần thiết, cậy nhờ đến việc điều trị tạm thời bằng cách kêu gọi đến dịch vụ y tế và xã hội chuyên biệt đang hoạt động trong các trung tâm điều dưỡng hoặc trong các trung tâm săn sóc cộng đồng hay tư gia.


Cách riêng, chúng ta phải kể đến vai trò của các bệnh viện, dưỡng đường và các nhà hưu dưỡng: căn tính địch thực của chúng không những chỉ là căn tính của những cơ sở săn sóc bệnh nhân hay người hấp hối, mà trước hết là căn tính của những nơi mà nỗi đau khổ, sự đau đớn và sự chết được nhận rõ và hiểu biết theo một ý nghĩa hoàn toàn nhân bản và đặc trưng Kitô giáo. Cách đặc biệt căn tính này còn phải biểu lộ một cách rõ ràng và hữu hiệu trong các cơ sở thuộc quyền của các tu sĩ hoặc trong các tổ chức có liên hệ cách này hay cách khác với Giáo Hội.

89. Các cơ cấu và các địa điểm phục vụ sự sống này, cũng như tất cả các sáng kiến hỗ trợ và liên đới khác mà nhiều hoàn cảnh có thể gợi lên trong từng trường hợp, cần được nhiều người khuyến khích, những người vốn dĩ sẵn lòng quảng đại và ý thức sâu xa tầm quan trọng của Tin Mừng về sự sống đối với lợi ích cá nhân và xã hội.

Một trách nhiệm đặc biệt được giao phó cho nhân viên y tế, dược sĩ, y tá, tuyên uý, tu sĩ nam nữ, những người điều hành và những người thiện nguyện. Chức nghiệp của quý vị là trở nên người bảo vệ và phục vụ sự sống nhân loại. Trong bối cảnh văn hoá xã hội hiện tại khi mà khoa học và y thuật liều lĩnh bỏ qua chiều kích luân lý tự nhiên của chính mình, đôi khi quý vị có thể bị cưỡng bức lối cuốn trở nên những tác nhân xử lý trên sự sống hoặc ngay cả trở nên những kẻ tạo ra sự chết. Trước sự lôi cuốn này, trách nhiệm của quý vị ngày nay tăng thêm đáng kể; trách nhiệm này kín múc nguồn cảm hứng sâu sắc nhất và tìm gặp được sự nâng đỡ mãnh liệt nhất trong chiều kích luân lý của nghề y tế, chiều kích thuộc về bản chất nghề nghiệp của quý vị, mà không ai có thể xao nhãng, như lời thề Hippocrate cổ xưa, nhưng luôn luôn hiện thực, lời thề đòi buộc tất cả mọi bác sĩ tuyên hứa tuyệt đối tôn trọng sự sống con người và đặc tính thánh thiêng của sự sống đó.


Sự tuyệt đối tôn trọng mọi sự sống vô tội của con người cũng đòi buộc thi hành sự phản bác của lương tâm trước việc cố ý phá thai và làm chết êm dịu. “Làm cho chết” không bao giờ được coi như một săn sóc y học, cho dù ý hướng chỉ đáp ứng nhu cầu của bệnh nhân, trái lại đồng tình là chối bỏ nghề y tế, một nghề tự xác định như lời “tán thành” mãnh liệt và kiên trì đối với sự sống. Chính việc nghiên cứu y học, một lĩnh vực đầy quyến rũ và tuyên báo nhiều lợi ích mới mẻ vĩ đại cho nhân loại phải luôn luôn từ chối những thí nghiệm, những nghiên cứu hoặc những ứng dụng, trong khi chối bỏ phẩm giá bất khả xâm phạm của con người, những việc này không còn phục vụ con người nữa và kỳ thực, tự biến mình thành những thực thể áp chế con người trong khi lại có vẻ giúp đỡ con người.


90. Những ai dấn thân trong các trại từ thiện được mời gọi giữ một vai trò đặc biệt: họ góp phần quý báu để phục vụ sự sống trong khi họ kết hợp khả năng chuyên môn nghề nghiệp với tình yêu quảng đại vô vị lợi. Tin Mừng về sự sống thúc giục họ nâng cao những tâm tình của lòng nhân ái đơn thuần lên tới mức độ của đức ái Chúa Kitô; Tin Mừng về sự sống khuyến khích họ hằng ngày khôi phục lại trong lao lực và mệt nhọc, ý thức về phẩm giá của tất cả mọi con người; Tin Mừng về sự sống động viên họ khám phá mọi nhu cầu của con người, bằng cách mở thêm, nếu cần thiết, nhiều lối thoát ở những nơi có nhu cầu cấp bách nhất và ở những nơi mà sự quan tâm giúp đỡ khiếm khuyết nhất.


Thực tại kiên định của đức ái đòi buộc Tin Mừng về sự sống cũng được loan báo qua các hình thức vận động xã hội và dấn thân làm chính trị, nơi mà người ta bênh vực và đề cao giá trị của sự sống trong xã hội của chúng ta, một xã hội ngày càng mang dấu phức tạp và đa nguyên. Cá nhân, gia đình, đoàn nhóm, thực thể hiệp hội, tuỳ theo tôn chỉ và phương cách khác nhau, đều có trách nhiệm trong cuộc vận động xã hội và trong việc khai triển các dự án văn hoá, kinh tế, chính trị và luật pháp, nhằm góp phần, trong sự tôn trọng mọi người và theo sự hợp lý của sinh hoạt xã hội dân chủ, xây dựng một xã hội ở đó phẩm giá của mỗi người đều được công nhận và được bảo toàn, và ở đó sự sống của mọi người đều được che chở và thăng tiến.


Nhiệm vụ đặc biệt này thuộc về những người có trách nhiệm lo cho đời sống công cộng. Được mời gọi phục vụ con người và lợi ích cộng đồng, họ có bổn phận thực hiện những sự lựa chọn can đảm vì lợi ích của sự sống, nhất là trong lĩnh vực thuộc quyết định lập pháp. Trong chế độ dân chủ, luật pháp và các quyết định đều được định đoạt trên cơ sở một sự nhất trí cao, nên ý nghĩ trách nhiệm cá nhân có thể bị giảm bớt trong lương tâm các nhà cầm quyền. Nhưng người ta không bao giờ có thể bỏ qua trách nhiệm này, nhất là khi người ta lãnh nhận quyền đại diện lập pháp này có liên can đến các quyết định, quyền mà người ta càng phải trả lời trước Thiên Chúa, trước lương tâm và trước toàn thể xã hội về những quyết định có thể trái nghịch với lợi ích thiết thực của cộng đồng. Nếu như luật pháp không phải là những phương cách duy nhất để bảo vệ sự sống con người, thì luật pháp cũng giữ một vai trò rất quan trọng và đôi khi quyết định trong việc hình thành các tâm thức và các thói quen. Tôi lập lại một lần nữa rằng thật là phi lý quy định nào xâm phạm quyền lợi tự nhiên của một con người vô tội đang sống, và như vậy, quy định đó không thể có hiệu lực pháp lý. Cũng vậy, tôi khẩn thiết lập lại lời kêu gọi của tôi với các nhà chính trị, mong quý vị đừng phổ biến những luật lệ nào, mà trong khi phủ nhận phẩm giá của con người, luật đó phá hại tận gốc rễ chính sự sống của xã hội dân sự.


Giáo hội biết rằng, trong bối cảnh chế độ dân chủ đa nguyên, do sự hiện diện của nhiều luồng văn hoá có khuynh hướng khác biệt, thật khó mà thực hiện một cách hữu hiệu việc bảo vệ sự sống cách hợp pháp. Thế nhưng, được khởi động bởi niềm xác tín rằng, sự thật luân lý không thể không gây ảnh hưởng trong cõi sâu thẳm của lương tâm, Giáo Hội khuyến khích các nhà chính trị, bắt đầu từ những ai là Kitô hữu, không nhượng bộ và, sau khi lưu ý những khả năng cụ thể, nên thực hiện những chọn lựa nào có thể đưa tới việc tái lập một trật tự công bằng trong sự xác nhận và cổ vũ giá trị của sự sống. Trong chiều hướng này, nên ghi nhận rằng loại bỏ những nỗ lực bất công thì chưa đủ. Phải chiến đấu với những nguyên nhân tạo điều kiện cho những mưu toan làm hại sự sống, nhất là bảo đảm cho gia đình và tình mẫu tử sự nâng đỡ cần thiết: chính sách gia đình phải là nền móng và động cơ tất cả mọi chính sách xã hội. bởi vậy, phải đưa ra những sáng kiến xã hội và lập pháp để có thể bảo đảm những điều kiện tự do chân thật trong việc chọn lựa liên hệ đến tình phụ tử và tình mẫu tử; hơn nữa cần xét xem lại quan điểm về các loại chính sách lao động, đời sống đo thị, nhà cửa và các dịch vụ, để người ta có thể điều hoà thời gian đi làm và thời gian dành cho gia đình, và để người ta có thể thực sự chăm sóc con cái và những người lớn tuổi.


91. Ngày nay, những vấn đề nhân khẩu tạo thành một phương diện quan trọng của chính sách vì sự sống. Chắc chắn công quyền có trách nhiệm đề ra những sáng kiến “nhằm định hướng khoa nhân khẩu học quần chúng” (114), nhưng những sáng kiến này luôn luôn phải biết đến và tôn trọng trách nhiệm đầu tiên và không thể khoan nhượng của đôi vợ chồng và của gia đình; những sáng kiến kiểu này không được bao hàm việc sử dụng những phương pháp không tôn trọng con người và những quyền căn bản của con người, bắt đầu từ quyền được sống của mọi người vô tội. Như vậy, về phương diện luân lý không thể chấp nhận được rằng, đề điều hoà sinh sản, người ta khuyến khích hoặc đi đến việc áp đặt việc sử dụng những phương pháp ngừa thai, triệt sản và phá thai.


Rõ ràng còn có nhiều cách khác để giải quyết vấn đề nhân khẩu: các chính phủ và các tổ chức quốc tế trước hết phải hướng tới việc tạo nên những điều kiện kinh tế, xã hội, y tế, vệ sinh và văn hoá cho phép các đôi vợ chồng hoàn toàn tự do và đầy đủ trách nhiệm thực hiện việc chọn lựa trong lãnh vực truyền sinh; sau nữa, các chính phủ và các tổ chức quốc tế cũng nên cố gắng “tăng cường các biện pháp và phân phối của cải một cách công bằng hơn để mọi người có thể dự phần cách đồng đều vào của cải trên thế giới. Phải tìm ra những giải pháp ở tầm mức quốc tế bằng cách thiết lập một nền kinh tế đích thực của hiệp thông và chia sẻ mọi công ích, trên bình diện quốc tế cũng như trên bình diện quốc gia” (115). Đó chính là con đường duy nhất tôn trọng phảm giá của con người và của gia đình, cũng như tôn trọng gia sản đích thực của mọi dân tộc.


Như vậy việc phục vụ Tin Mừng về sự sống là rộng lớn và phức tạp. Càng ngày chúng ta càng thấy việc phục vụ Tin Mừng về sự sống như là một lĩnh vực quý giá và thuận lợi cho việc hợp tác cụ thể với các anh em của những Giáo Hội và những Cộng đoàn Giáo Hội khác, trong đường hướng những việc làm đại kết mà Công đồng Vatican II đã dùng uy quyền của mình khuyến khích (116). Hơn nữa việc phục vụ Tin Mừng về sự sống còn như một khung cảnh quan phòng cho sự đối thoại và cộng tác với các tín hữu của những tôn giáo khác và với tất cả mọi người thiện tâm: bênh vực và thăng tiến sự sống không là độc quyền của riêng ai nhưng đúng là bổn phận và trách nhiệm của mọi người. Thách đố mà chúng ta phải đương đầu trước thềm đệ tam thiên niên kỷ thật là khó khăn: chỉ có sự hiệp lực nhịp nhàng của tất cả những ai tin vào giá trị của sự sống mới có thể tránh được một thất bại của nền văn minh, với những hậu quả không thể lường trước được.



---------------
101 Tông huấn Evangelii Nuntiandi-Loan báo Tin Mừng (8.12.1975), số 14.
102 x. Sách Lễ Rôma, lời kinh của chủ tế trước khi chịu lễ.
103 x. Thánh Irênê: "Omnem novitatem attulit, semetipsum afferens, qui fuerat annuntiatus", Adversus Haereses-Chống lạc giáo: IV, 34, 1.
104 x. Thánh Tôma Aquinô, "Peccator inveterascit, recedens a novitate Christi", In Psalmos Davidis Lectura: 6,5.
105 De Beatitudinibus-Bài giảng về các mối phúc, VII.
106 x. Đức Gioan Phaolô II, Thông điệp Veritatis Splendor-Ánh rạng ngời của chân lý (6.8.1993), số 116.
107 x. Đức Gioan Phaolô II, Thông điệp Centesimus Annus – Năm thứ một trăm (1.5.1991), số 37.
108 x. Sứ điệp Giáng Sinh 1967: AAS 60 (1968), 40.
109 Pseudo- Dionysius the Areopagite, On the Divine Names-Về các tên thần linh, 6, 1-3.
110 Đức Phaolô VI, Pensiero alla Morte-Tư tưởng về sự chết, Istituto Paolo VI, Brescia 1988, 24.
111 Đức Gioan Phaolô II, Bài giảng lễ phong Chân phước Isidore Bakanja, Elisabetta Canori Mora và Gianna Beretta Molla (24.4.1994): L'Osservatore Romano, 25-26 April 1994, 5.
112 Như trên.

113 In Matthaeum, Hom. (Bài giảng về Tin Mừng Matthêu) I, 3
114 Sách GLHTCG, số 2372.
115 Đức Gioan Phaolô II, Diễn văn tại Đại hội Giám mục Mỹ Latinh ở San Domingo (12.10.1992), số 15.
116 x. Sắc lệnh về Đại kết Unitatis Redintegratio, số 12; Hiến chế mục vụ Gaudium et Spes - Vui mừng và Hy vọng, số 90.



Theo gpnt.net